Món Ăn Đặc Thù Miền Bắc: Yên Bái
XÔI NGŨ SẮC - YÊN BÁI
Về Mường Lò, mảnh đất miền Tây của tỉnh Yên Bái những
ngày đầu xuân, du khách không chỉ được đắm chìm trong cảnh sắc êm ả
của núi rừng Tây Bắc mà còn được đắm say trong điệu khắp điệu xoè, cùng
thưởng thức các món ăn dân dã đặc sản của người Thái Mường Lò như cơm
lam, xôi ngũ sắc.
Xôi ngũ sắc hội tụ được những giá trị truyền thống và
hiện đại, mang ý nghĩa về quan niệm vũ trụ, triết lý âm dương và ý
nghĩa nhân sinh cao đẹp. Khẩu cắm lanh là cơm xôi màu đỏ tượng trưng
cho khát vọng.
Khẩu cắm lăm là cơm xôi màu tím tượng trưng cho trái đất trù phú. Khẩu
cắm hương là cơm xôi màu vàng tượng cho sự no ấm đầy đủ. Khẩu khiêu là
cơm xôi màu xanh tượng trưng cho màu xanh của núi rừng Tây Bắc. Khẩu
nón là cơm xôi màu trắng tượng trưng cho tình yêu trong trắng thuỷ
chung.
Để có xôi ngon, thơm dẻo người làm nghề phải tuân thủ
nghiêm ngặt theo các quy trình từ khâu chọn lá nhuộm màu đến việc đồ
xôi. Nguyên liệu để nấu xôi phải là gạo nếp Tú Lệ hạt to, trong, một
loại nếp thơm ngon và nổi tiếng nhất vùng. Bốn loại lá rừng dùng để
nhuộm các màu xanh - đỏ - tím - vàng được người dân lựa chọn kỹ lưỡng,
lá không được quá non hay quá già. Sau đó rửa sạch nấu với nước lấy từ
suối nguồn ở xã Tú Lệ. Khi đã có nước màu, gạo nếp được cho vào ngâm
khoảng 10 tiếng rồi vớt để ráo nước. Gạo ráo nước sẽ được đồ trong chõ
xôi truyền thống của đồng bào gọi là Mỏ Lửng - Tay Lung. Chõ xôi hình
bầu dục bằng thân cây cọ hoặc gỗ thơm được gọt đẽo để thủng hai đầu,
đầu trên có nắp đậy, đầu dưới lót bằng phên nứa, mỗi chõ xôi được hơn
1kg gạo. Quá trình đồ xôi lửa phải đều, đượm than, Xôi chín dẻo, thơm
đậm, dù nóng hay nguội nắm chặt tay cũng không dính.
Xôi chín được đơm vào đĩa hoặc trình bày theo từng ý
tưởng khác nhau với 5 màu xanh - đỏ - tím - vàng - trắng. Năm màu được
ghép trên một mâm xôi hình cánh hoa ban thì tượng trưng cho thuyết âm
dương Ngũ hành, đồng thời thể hiện khát vọng yêu thương, tình yêu son
sắt thuỷ chung, lòng yêu mẹ kính cha của đồng bào dân tộc Thái Tây Bắc.
______________________________________________
CHÈ SUỐI GIÀNG
Nằm
trên độ cao gần 1.400m so với mực nước biển, khí hậu của Suối Giàng
tương tự như Sa Pa, Đà Lạt. Du khách đến đây có thể trèo lên những cây
chè cổ thụ hàng trăm tuổi, hái những búp chè xanh non cùng thiếu nữ
Mông mến khách, hay dạo chơi dưới rừng Pơ mu hoặc phiêu du cùng thác
Tập Lang rì rầm nước chảy. Ai đã từng lên thăm xã Suối Giàng, huyện
Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, đều không khỏi ngỡ ngàng trước bạt ngàn những
cây chè cổ thụ. Ngay từ những năm 60, thống kê có tới gần 40.000 cây chè
Shan cổ thụ có từ 200 tuổi, đến 300 tuổi, còn những cây hàng trăm tuổi
trở xuống thì nhiều không kể xiết. Chè cổ thụ nhiều đến nỗi viện sĩ K.
M. Djemmukhatze thuộc viện sinh hóa A. Ba Cu, Viện hàn lâm khoa học
Liên Xô, khi đến Suối Giàng nghiên cứu vào những năm 60 của thế kỷ 20
này phải thốt lên: "Tôi đã đi qua 120 nước có chè trên thế giới, nhưng
chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là
cội nguồn của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ
18 vị đầu đẳng của chè trên thế giới” (lời ghi trong sổ lưu niệm của
xã Suối Giàng). Hương chè thơm thoảng, vấn vít trong từng ngọn gió,
ngưng trên từng lá cây, ngọn cỏ. Vậy mà khi thưởng thức, người sành trà
cứ không khỏi phân vân: Vị chè độc đáo lắm, tuyệt vời lắm, nhấp một
ngụm nhỏ hàng giờ sau dư vị ngọt ngào vẫn không tan trên đầu lưỡi,
nhưng sao hương thơm còn rất khiêm nhường? Suối Giàng bốn mùa bồng
bềnh trong mây, hấp dẫn du khách bởi khí hậu, vị ngọt của chè tuyết cổ
thụ, của mật ong tinh khiết và tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn môi
cùng lời hát trao tình của các chàng trai, cô gái Mông réo rắt gọi
mời...
___________________________________________
NẾP TÚ LỆ YÊN BÁI
Tôi còn nhớ một truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa, có
một tộc người Thái được tiên hiện lên cho một coóng thóc quý và dặn
rằng phải tìm được mảnh đất phù hợp thì thóc quý mới mọc và cho nhiều
gạo dẻo thơm. Người Thái hành trình đi khắp vùng Tây Bắc, đến nơi nào
thấy đất tốt cũng gieo trồng thử nhưng hạt thóc không nảy mầm. Không
nản chí, người Thái vẫn tiếp tục đi. Đến chân đèo Khau Phạ, họ xuống
suối Mường Lùng uống nước, thấy dòng nước mát trong và ngọt lịm, đất
trong thung lũng tươi tốt lạ lùng. Gieo hạt giống xuống thấy nảy mầm
xanh tốt và cho gạo dẻo thơm. Thế là người Thái dừng lại, cất nhà dựng
bản và trồng lúa nếp từ thuở ấy..
Một cảm giác linh thiêng khi
đặt chân lên đất Tú Lệ. Sáng sớm, khi núi rừng còn ngà ngà một màu
trắng đục của sương mù thì khắp các nương lúa nếp, màu áo chàm đen của
bà con đi gặt đã thấp thoáng. Hương thơm vương vít khắp không gian, đậu
vào từng nhánh cây ngọn cỏ, khiến người khách xa thấy lòng xốn xang.
Thưởng thức món xôi nếp ở đây quả là một ấn tượng không thể quên. Chỉ
cần mua 2000 đồng tiền xôi thì cũng đủ no cả ngày. Đặc biệt là mùi
thơm, dù đã ăn xôi nếp rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi cảm nhận
thứ gạo này khoe đầy đủ mùi thơm như ở trên chính quê hương của nó. Vị
ngọt ngào, vừa đủ ngậy mà không quá béo, vừa đủ độ mềm dẻo mà không quá
ướt hay quá khô để người thưởng thức khó tính nhất cũng phải tấm tắc. Gạo
nếp Tú Lệ chẳng cần phải thêm đỗ, thêm dừa cho đậm đà mùi vị. Chỉ xôi
gạo không thôi mới thấy hết sự mộc mạc của núi rừng, sự tinh túy của
trời đất. Ngoài thổi xôi, gạo nếp Tú Lệ dùng để gói bánh chưng, giã
bánh dày hay chế biến các món bánh khác cũng đặc biệt thơm ngon. Sẽ thú
vị hơn khi trong mỗi mâm cỗ ngày lễ tết hay trong mỗi túi quà quê biếu
người đi xa, có thêm hương vị của nếp Tú Lệ - đặc sản của một vùng quê
hương Yên Bái.
___________________________________________
CAM VĂN CHẤN YÊN BÁI
Cam
Văn Chấn: Trên khắp các sườn đồi của huyện Văn Chấn (Yên Bái) toàn bộ
được bao phủ bởi những vườn cam sai trĩu quả như chào đón mùa xuân. Do
địa hình đồi núi nên cây cam cũng được trồng theo tầng như trồng rừng:
trên cao nhất của sườn đồi là trồng cam chanh; xuống dưới là cam sành
và dưới thấp nhất là cam sen hoặc quýt. Tại huyện Văn Chấn cam được
trồng nhiều nhất tại nông trường với diện tích cam khá lớn (khoảng
200ha), trong đó có 150 ha đang trong thời kỳ cho thu hoạch. Trong khi
rất nhiều vùng trồng cam trong cả nước thu hoạch cam vào dịp tết Nguyên
Đán để bán với giá cao thì người trồng cam tại huyện Văn Chấn lại "ung
dung” chờ đến hết tết mới tiến hành thu hoạch cam. Một người nông dân
trồng cam ở đây cho biết: cam thu hoạch rộ nhất là khoảng rằm tháng
riêng. Mặc dù không phải là cam tết nhưng giá cam cũng không kém vì nhu
cầu chơi xuân, lễ hội truyền thống của dân tộc ta. Ở huyện có nhiều hộ
gia đình có tới mấy ha trồng cam, hàng năm họ thu nhập vài trăm triệu
đồng vào dịp xuân mới. Còn hầu hết các hộ trồng ít cũng phải có khoảng
tới vài nghìn mét vuông đất trồng cam cho thu nhập vài chục triệu. Ở
Văn Chấn phong trào trồng cam giống như một nghề truyền thống vậy. Tuy
nhiên, thực tế cam Văn Chấn chưa được nhiều người tiêu dùng biết đến và
chất lượng chưa thể so sánh với các loại cam nổi tiếng như: cam Hà
Giang hay cam Vinh. Chính vì thế, huyện chủ trương đưa những loại cam
có năng suất cao và chất lượng tốt về trồng để cải thiện vườn cam của
Văn Chấn. Kết quả có hai loại cam được đánh giá là hợp với đất này là
cam Valencia và cam đường Canh. Từ đó huyện mở rộng diện tích trồng hai
loại cam trên, đến nay được khoảng 70 ha. Theo đó, huyện có chủ trương
khuyến khích nhân dân trong vùng mở rộng diện tích, nâng cao chất
lượng trồng cam để tiến tới phục vụ người tiêu dùng trong và ngoài nước
________________________________________________
QUẾ VĂN YÊN
Quế Văn Yên: Đến Văn Yên (Yên Bái) đi đâu cũng gặp quế - một loài cây
đã gắn bó với đời sống thường ngày của người dân. Không chỉ đem lại
nguồn lợi kinh tế cho mỗi gia đình mà cây quế không thể thiếu trong đời
sống văn hoá của cộng đồng người Dao Văn Yên. Ở xã Đại Sơn, ông
Hoàng Văn An là một trong những đại biểu người dân tộc thiểu số tiêu
biểu có công trong kháng chiến được gặp Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch năm 1962.
Năm 1970 khi xã phát động trồng "Đồi quế nhớ ơn Bác Hồ" ông cũng trồng
được 8 cây trong vườn nhà và đến năm 2000 ông đã bóc bán được 70 triệu
đồng để mua công trái xây dựng Tổ quốc. Người dân xã Viễn sơn
thường nói đến ông Bàn Văn Quan như người sinh ra cây quế bởi ông là
người đầu tiên trong xã đem quế về trồng trong vườn nhà. 75 tuổi - cái
tuổi "xưa nay hiếm" nhưng ông Quan vẫn lên rừng quế mỗi ngày. Cây quế
đã gắn bó với ông gần cả đời người. Năm lên 9 tuổi, ông đã mang cây quế
từ bản Đá Trắng về trồng chỉ vì ông thấy người dân bản Đá Trắng trồng
quế bán được nhiều tiền, gia đình họ không nghèo đói. Từ trong vườn
nhà, quế của ông vượt lên đồi, quế phủ xanh những mảnh nương bạc mầu.
Quế giúp gia đình ông, họ hàng ông rồi cả người dân trong xã ông được
no ấm. Và một tập quán mới của người Dao đã hình thành, cứ đến mùa xuân
cả bản lại cùng nhau tạo ra những nương quế mới.
Quả thực, cây
quế ở Văn Yên đã đóng góp đáng kể giúp người dân vượt qua đói nghèo
với rất nhiều hộ gia đình có thu nhập từ vài chục đến hàng trăm triệu
đồng /năm. Đặc biệt hơn cây quế đã trở thành món quà quý của cha mẹ
dành giụm cho con khi dựng vợ, gả chồng. Quế được xem như của hồi môn,
như là vốn liếng của cha mẹ giúp con tạo lập cuộc sống gia đình. Cây quế
giúp người dân có nhà xây, giúp con em họ được học hành. Hiện nay
cây quế không chỉ có ở Viễn Sơn, Đại Sơn mà quế đã được phát triển ở 27
xã, thị trấn của huyện Văn Yên với 14.800ha. Cùng với một số loại cây
kinh tế khác, quế đã và đang khẳng định vị trí của mình trong đời sống
xã hội của người dân nơi đây. Đó niềm tự hào của người Dao Văn Yên. Huyện Văn Yên đã khảo sát được 90 cây quế đủ tiêu chuẩn giữ lại làm giống ở 3 xã Đại Sơn, Viễn Sơn, Xuân Tầm. Huyện
còn chủ trương đưa 12,5ha quế cây có đường kính 30cm trở lên và có
chiều cao 15m trở lên tại 4 xã Đại Sơn, Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, để
bảo tồn nguồn giống và làm tiền đề phục vụ du lịch. Đến nay cả 27
xã, thị trấn trong huyện đã có trên 15.000ha quế. Quế trở thành cây cho
thu nhập cao, tăng độ che phủ rừng, nhiều hộ đã làm giàu từ cây quế.
Ngoài thu hoạch quế vỏ, thân quế đã bóc vỏ có "vanh" từ 35cm trở lên
dùng chế biến gỗ nhân tạo, còn loại nhỏ bán làm cây chống dùng trong
xây dựng. Là cây công nghiệp chủ lực nhưng vụ quế này người dân không
mặn mà với việc thu hoạch. Nguyên nhân do giá quế thấp, trong khi công
làm sạch thực bì, công làm cỏ, công bóc vỏ tăng cao, một số cây trồng
trên đất dốc khác đang có giá trị trước mắt, nên cây quế bị "xuống
hạng" ít nhà chú ý. Để mở rộng diện tích trồng quế và bảo đảm nguồn
giống tốt, huyện Văn Yên đang xây dựng thương hiệu quế Văn Yên, quy
hoạch lại vùng trồng quế tập trung vào các xã vùng cao; thống nhất quản
lý các hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quế trên địa bàn.
Trước mắt, các xã đã kiên trì thuyết phục đồng bào không phá quế trồng
sắn (giá bán củ sắn tươi 120.000 đồng/tạ), ưu tiên phát triển giao thông
nông thôn vùng cao để đồng bào thuận lợi trong vận chuyển sản phẩm quế
đi tiêu thụ.
|