Chào mừng Các bạn đã ghé thăm Website của tập thể lớp chúng tôi vào Thứ 6, ngày 19/04/2024, lúc 5:42 PM. Chúc bạn tìm được những điều bạn cần trên Website của lớp chúng tôi. Nếu Bạn muốn Download tài liệu thì xin vui lòng đăng nhập để thấy linhk, nếu có thắc mắc gì xin vui lòng liên hệ với Quản trị Website theo số điện thoại: 0985639026 hoặc Email: chinh08cvhh@gmail.com. Xin chân thành cảm ơn các bạn.
Trang chủ » Files » TÀI LIỆU HỌC TẬP

Bài tập nhóm 2 ( Học phần Văn hóa văn minh Pháp): Ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản pháp 1789
11/05/2011, 10:53 PM
hân

Để xem Phần PowerPoint thì các bạn kích vào Dowloadn từ gương về máy và xem nhé

PHẦN MỞ ĐẦU

Khi chế độ phong kiến đã phát triển đến đỉnh cao và dần trở lên lạc hậu,  không còn phù hợp với sự tiến triển của kinh tế xã hội mà còn trở lên kìm hãm và ngăn chặn sự phát triển của lực lượng sản xuất thì tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn để phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, phù hợp với quy luật của lịch sử - đó là chế độ tư bản chủ nghĩa.  
      Thế kỉ XVIII là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử thời cận đại. Trừ Anh và Hà Lan ra thì chế độ phong kiến còn thống trị ở hầu hết các nước ở Châu Âu. Nhưng trong lòng chế độ phong kiến thối nát đã chứa đựng những mầm mống báo hiệu sự sụp đổ của nền quân chủ đó. Nước Pháp là một nước có mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ biểu hiện cao độ, có chứa những cuộc đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ không thể tránh khỏi một cuộc cách mạng.

Cuộc cách mạng đã để lại những ý nghĩa to lớn không chỉ đối với nước Pháp mà nó còn có tầm ảnh hưởng tới những cuộc cách mạng trên thế giới ở  những giai đoạn sau này.

 

 PHẦN NỘI DUNG

 I. Tình hình nước Pháp trước cách mạng

1. Tình hình kinh tế:

1.1. Kinh tế công thương nghiệp.    
       Trong thế kỷ XVIII, công thương nghiệp Pháp phát triển khá mạnh và tạo nên sự phồn vinh cho nưóc Pháp. Ðại diện cho ngành công nghiệp ở Pháp lúc bấy giờ là những công trưòng thủ công phân tán và tập trung. Những công trường thủ công nổi tiếng ở Pháp là: công trường sản xuất thảm hoa, len dạ, tơ lụa, xà phòng, thủy tinh...Trong công nghiệp, Pháp đã sử dụng máy móc như máy dệt, máy quay tơ, máy bơm hơi nước. Ðã có những xí nghiệp tập trung hàng ngàn công nhân như nhà máy cơ khí Le Creusot, công ty khai khoáng Anzin. Tuy nhiên, chế độ phưòng hội vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong công nghiệp Pháp, nhất là trong ngành thủ công nghiệp. Những qui định ngặt nghèo của chế độ phường hội đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất công nghiệp ở Pháp, nó kìm hãm sự tự do kinh doanh và cải tiến sản xuất. Thương nghiệp cũng có những tiến bộ nổi bật, nhất là ngoại thương. Ngoại thương đã đem lại sự phồn vinh cho các hải cảng của Pháp. Paris và Lyon là những trung tâm của hội chợ quốc tế lúc bấy giờ. Pháp xuất cảng: lúa mì, len, gia súc, rượu vang, hàng xa xỉ phẩm... Pháp nhập: thuốc lá, cà phê. Việc buôn nô lệ chiếm một vị trí quan trọng trong thương nghiệp ở Pháp. Tuy nhiên, nội thương không phát triển lắm vì chế độ thuế quan khá nghiêm ngặt.  
1.2. Nông nghiệp.        
       Chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế Pháp với 90% dân số là nông dân. Nông nghiệp Pháp là một nền nông nghiệp lạc hậu. Nguyên nhân của tình trạng này là chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Chế độ này đẻ ra hàng loạt những nghĩa vụ phong kiến vừa phi lý, vừa bất công, nặng nề đè lên lưng người nông dân, làm cho họ mất sáng kiến và hứng thú sản xuất. Ðất đai trong nông nghiệp được sử dụng theo hai hình thức:

 - Lãnh chúa phong kiến chiếm một phần đất đai làm lãnh địa. Lãnh địa được chia thành những mảnh nhỏ, phát canh cho nông dân để thu tô.

 - Ngoài lãnh địa, một phần lớn đất đai được canh tác theo lối vĩnh điền nông nô. Nông dân lao động trên mảnh đất mà họ không có quyền sở hữu và phải nộp thuế cho lãnh chúa. Khác với các tá điền, những nông dân vĩnh điền này không phải trả lại ruộng đất cho lãnh chúa nếu họ đóng thuế đều. Phương pháp canh tác rất thô sơ, lạc hậu, thể hiện rõ trong công cụ của nông dân. Ngưòi ta vẫn cày bằng những chiếc cày nặng thừa hưởng của người La Mã hay những chiếc cày thô kiểu Slave. Sự bóc lột nông dân lĩnh canh hay nông dân vĩnh điền là nguồn sinh sống chủ yếu của địa chủ, quí tộc, tăng lữ. Khi kinh tế thị trường phát triển, những yếu tố tư bản chủ nghĩa (TBCN) của thành thị đã ảnh hưởng đến nông thôn: tô tiền thay cho tô hiện vật; những nghĩa vụ mà nông dân gánh vác như: tô, thuế, thuế 1/10 và những nghĩa vụ phong kiến khác cũng được tính bằng tiền. Quan hệ tiền tệ đã xâm nhập vào lãnh địa Pháp, nhưng nó không phá vỡ tính tự túc, tự cấp trong lãnh địa Pháp.

Tóm lại, cuối thế kỷ XVIII, công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, những yếu tố TBCN đang nổi lên, nhưng chế độ phong kiến đã ngăn cản sự phát triển đó. Tổ chức nông nghiệp phong kiến, chế độ phường hội ngặt nghèo, thuế quan nội địa nhiều tầng, hệ thống đo lường không thống nhất là những trở ngại kìm hãm nghiêm trọng lực lượng sản xuất TBCN.

2. Chế độ chính trị và xã hội:          
    
Louis XVI là người đại diện cho chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp. Ông nắm mọi quyền hành, không chịu một sự kiểm soát nào. Sự chuyên chế của nhà vua thể hiện ở việc tập trung cao độ quyền hành chính: vua quyết định mọi việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm và cách chức các bộ trưởng, các nhân viên nhà nước, hủy bỏ các đạo luật, độc quyền trừng phạt và ân xá thể hiện qua "giấy có ấn vua". Vua có quyền bắt giam vô cớ những dân nghèo vô tội, giam giữ bao lâu tùy ý, không cần xét xử. Vua là người điều hành tối cao công việc trong nước. Giúp việc vua là các vị đại thần. Vua cử ra những quan thân cận mình để làm tổng quản ở các địa phương, những người này rất độc đoán và khắc nghiệt. Sự quan liêu, tham nhũng và bất công của các quan giám quận là một gánh nặng đối với đời sống nhân dân địa phương.      
        Chế độ ba đẳng cấp:

 Pháp là một quốc gia phong kiến lâu đời. Xã hội phong kiến Pháp chia làm ba đẳng cấp dựa trên sự phân biệt giữa những người phục vụ trong xã hội bằng lời cầu nguyện, bằng cung kiếm và lao động của họ. Hai đẳng cấp có đặc quyền:

- Ðẳng cấp I: Tăng lữ.   
- Ðẳng cấp II: Quí tộc.  
Hai đẳng cấp này nắm mọi chức vụ cao nhất trong bộ máy nhà nước, trong quân đội và trong giáo hội. Ðó là hai đẳng cấp có mọi thứ đặc quyền, được miễn các loại thuế. Ðặc biệt giáo hội ở Pháp có quyền thu thuế 1/10 đối với nông dân.  
- Ðẳng cấp III gồm: tư sản, nông dân, bình dân thành thị.

+ Giai cấp tư sản: đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong Ðẳng cấp thứ ba. Giai cấp tư sản gồm những tầng lớp sau: đại tư sản tài chính, tư sản công thương nghiệp và tiểu tư sản.    
+ Giai cấp nông dân: là giai cấp đông đảo nhất trong đẳng cấp thứ ba cũng như trong xã hội Pháp. Nông dân Pháp bị ba tầng áp bức: nhà nước, nhà thờ, lãnh chúa. Ngoài thuế 1/10 nộp cho nhà thờ, nông dân còn phải đóng nhiều loại thuế cho lãnh chúa, và nộp những khoản phụ thu khác như khi chở lúa qua cầu hoặc sử dụng nhà máy xay lúa của lãnh chúa. Ngoài việc thu tô bằng tiền hay hiện vật, lãnh chúa còn bắt nông dân phải thực hiện những nghĩa vụ lao dịch nặng nề. Nạn đói thường xuyên đe doạ nông dân, kể cả những năm được mùa. Căm thù lãnh chúa, nông dân sẵn sàng đi theo giai cấp tư sản, và trở thành động lực chủ yếu của cách mạng         
+ Bình dân thành thị: gồm những tầng lớp có thu nhập thấp trong xã hội. Họ gồm những người làm nghề tự do, thợ thủ công, những người bán hàng rong...Trong tầng lớp bình dân thành thị, công nhân và thợ thủ công là những tầng lớp tích cực cách mạng, họ đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến. Toàn bộ Ðẳng cấp thứ ba đều không có đặc quyền, đặc lợi. Nhưng trong mỗi giai cấp, mỗi thành phần lại có quyền lợi khác nhau, nên dễ bị phân hóa khi mục đích chung đã đạt được ở một mức độ nhất định nào đó.      
3. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng.
          Cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến ở Pháp cũng thể hiện trên lĩnh vực tư tưởng. Các nhà văn, nhà tư tưởng tiến bộ đã tấn công vào chế độ phong kiến và giáo hội thông qua trào lưu "tư tưởng Ánh Sáng" của thế kỉ XVIII.

  4. Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến.

     Giữa thế kỷ XVIII, nền quân chủ chuyên chế Pháp lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sự khủng hoảng bắt nguồn từ lĩnh vực tài chính. Louis XVI thừa hưởng một ngân khố trống rỗng do những cuộc chiến tranh của Pháp với các nước châu Âu thời Louis XV. Bên cạnh đó, sự hoang phí vô độ của triều đình làm cho ngân sách ngày càng kịêt quệ. Số nợ của nhà nước ngày càng tăng, trong khi đó các chủ nợ không chịu cho vay thêm. Các tổng thanh tra Turgot và Necker đề ra những biện pháp để giải quyết vấn đề tài chính cho nhà vua, nhưng không thành công. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1787-1788 nổ ra do sự mất mùa làm cho vấn đề khủng hoảng tài chính càng thêm nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực công thương nghiệp cũng làm ngưng trệ những hoạt động kinh doanh, nạn thất nghiệp lan tràn, nông dân bị thất thu, đói kém. Như vậy, cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính đã đưa chế độ phong kiến đến chỗ suy sụp nhanh chóng. Ðể giải quyết nạn khủng hoảng tài chính, nhà vua cho triệu tập hội nghị Ba Ðẳng cấp mà từ lâu nhà vua đã đóng cửa. Tại hội nghị, đã diễn ra sự đấu tranh quyết liệt giữa ba đẳng cấp trong vấn đề bỏ phiếu. Với thế mạnh của mình, Ðẳng cấp thứ ba tự tuyên bố đại diện cho dân tộc Pháp và thành lập Hội nghị Quốc dân (National Assembly). Sau đó Hội nghị Quốc dân đổi thành Quốc hội Lập hiến.

II. Nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng tư sản Pháp

      Sau cuộc Chiến tranh bảy năm (1756 - 1763), nền quân chủ Pháp suy thoái nghiêm trọng, trong khi những liệt cường phía Đông là Nga, PhổÁo lại phát triển lớn mạnh. Có nhiều yếu tố dẫn tới cuộc cách mạng: một  mặt, chế độ cũ không còn chống đỡ nổi tính cứng nhắc của chính nó đối diện với một thế giới đang thay đổi; mặt khác, nó rơi vào những tham vọng của một tầng lớp trưởng giả đang nổi lên, cộng với sự lo lắng của những người nông dân, người làm công ăn lương, và các cá nhân ở mọi tầng lớp đang chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng của thời đại khai sáng. Khi cách mạng diễn ra và khi quyền lực được trao từ tay triều đình cho các thể chế luật Pháp, những xung đột quyền lợi của các nhóm liên minh ban đầu đó đã trở thành nguồn gốc của xung đột và đổ máu.

        Chắc chắn, các nguyên nhân của cách mạng phải bao gồm tất cả những điều sau:

+ Sự oán giận đối với chế độ quân chủ chuyên chế đương thời.

+ Sự oán giận đối với hệ thống lãnh chúa từ phía những người nông dân, làm công ăn lương, và ở một mặt rộng hơn cả của tầng lớp trưởng giả.

+ Sự nổi lên của các tư tưởng của thời đại ánh sáng.

+ Nợ quốc gia không thể kiểm soát nổi, có nguyên nhân từ việc tăng thêm gánh nặng của một hệ thống thuế rất lớn.

+ Sự thiếu thốn thức ăn vào những tháng ngay trước khi cách mạng nổ ra.

+ Sự oán giận đối với tầng lớp quý tộc đặc quyền và sự thống trị đối với cuộc sống công cộng từ phía những tầng lớp chuyên nghiệp đầy tham vọng.

+ Ảnh hưởng của Cách mạng Hoa Kỳ

III. Sơ lược diễn biến của cuộc cánh mạng       
1. Giai đoạn cách mạng bùng nổ và thống trị của tư sản lập hiến

( 14/07/1789 – 10/8/1792)       .
- Ngày 14-7-1789 và phong trào cách mạng ở nông thôn:

Trưóc hành động cách mạng của toàn thể đẳng cấp thứ ba, Louis XVI tìm mọi cách chống đối. Ở những nơi lãnh chúa tỏ ra ngoan cố thì nông dân thiêu hủy lâu đài, và đôi khi họ còn treo cổ lãnh chúa. Ðây là sự phản kháng mãnh liệt của nông dân ở nông thôn.     
-  Hoạt động của quốc hội Lập hiến .

Ðêm lịch sử 4-8-1789: những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã dẫn đến đêm lịch sử 4-8. Thông qua đề nghị của tư sản và một số quí tộc tự do,  Quốc hội Lập hiến đã tuyên bố sắc lệnh: Bãi bỏ chế độ phong kiến: những đặc quyền, đặc lợi của đẳng cấp I và II được thay bằng sự bình đẳng về pháp lý.

- Ngày 26-8-1789, quốc hội Lập hiến thông qua một văn kiện có tính chất cương lĩnh: Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.

-  Chiến tranh giữa Pháp và Châu Âu:

 Sau khi ngục Bastille thất thủ, quí tộc phản cách mạng lần lượt bỏ trốn khỏi nước Pháp. Louis XVI cũng tìm cách vượt biên nhưng bị bắt lại. Sau khi bị bắt, Louis XVI vẫn tiếp tục chống phá cách mạng. Ông tìm cách liên minh với các nước phong kiến châu Âu để đưa nước Pháp vào một cuộc chiến tranh.

2. Giai đoạn thống trị của phái cộng hòa tư sản Girôngđanh (10/8/1792 – 31/05/1793)  
- Sau khi tư sản tài chính bị lật đổ do cuộc khởi nghĩa của quần chúng nhân dân ngày 10-8-1792, tư sản công thưong nghiệp lên nắm chính quyền. Bên cạnh chính quyền của tư sản, công xã cách mạng (ra đời trong cuộc khởi nghĩa 10-8-1792) đã tồn tại như một chính quyền cách mạng của nhân dân.
- Việc xử tử Louis XVI. Lúc mới cầm quyền, phái Girôngđanh chiếm ưu thế trong quốc hội, nhưng phái này ngày càng tỏ rõ sự ích kỷ của mình. Trong khi đó, phái Giacôbanh tuy ít ghế trong Quốc ước nhưng là một phái kiên quyết cách mạng, tích cực bảo vệ quyền lợi cho quần chúng nhân dân. Ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa phái Girôngđanh và phái Giacôbanh trong Quốc ước. Phái Girôngđanh cho rằng những mục tiêu của mình đã đạt được, không cần phải triệt để đấu tranh. Trái lại, phái Giacôbanh cho rằng cần phải tiến hành nhiều biện pháp tích cực cách mạng hơn. Cuộc xung đột giữa hai phái còn thể hiện trong việc luận tội Louis XVI. Phái Girôngđanh tìm mọi lý lẽ để bênh vực, tránh tội tử hình cho Louis XVI. Trong khi đó, phái Giacôbanh đề nghị xử tử vua Louis XVI. Cuối cùng, bất chấp thái độ phản động của phái Girôngđanh, ngày 15-1-1793, Quốc ước bỏ phiếu kết án tử hình Louis XVI và sau đó, ngày 21-1-1793 Louis XVI bị xử tử  .

3. Nền chuyên chính dân chủ Cách Mạng của phái Giacôbanh. 
- Sự thành lập chính quyền chuyên chính dân chủ Cách Mạng. Với việc lật đổ phái Girôngđanh, cách mạng Pháp chuyển sang đỉnh cao: nền chuyên chính dân chủ Cách Mạng Giacôbanh. Chính quyền thuộc về một bộ phận tiến bộ nhất trong giai cấp tư sản, gắn bó với quyền lợi của quần chúng nhân dân. Do đó, họ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân.

- Tổ chức chính quyền chuyên chính dân chủ Cách Mạng. Cơ quan tối cao của chính quyền là Quốc Ước, tập trung trong tay quyền hành pháp và lập pháp. Dưới nó là các ủy ban, hai ủy ban quan trọng là Ủy ban An ninh và Ủy ban Cứu Quốc. Ủy ban Cứu quốc có dưới quyền trực thuộc của nó tất cả các cơ quan của chính quyền và những viên chức nhà nước. Ủy ban An ninh toàn quốc lãnh đạo các cơ quan cảnh sát và tòa án cách mạng, chủ yếu là cơ quan thực hiện chính sách khủng bố đối với kẻ thù bên trong của cách mạng, nhất là việc thi hành luật những người tình nghi.  
 - Sau khi nắm chính quyền, phái Giacôbanh đã thông qua một loạt những biện pháp nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của cách mạng. Dựa trên nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phát huy được tính tích cực của họ, phái Giacôbanh đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ những thành quả của cách mạng Pháp.
+ Thứ nhất về vấn đề ruộng đất :

+ Thứ hai về luật giá tối đa:   
+Thứ ba thanh toán thù trong giặc ngoài:

+ Thứ tư đấu tranh chống Giáo hội.

IV. Ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản pháp.

1.                 Đối với nước Pháp

* Trước hết chúng  ta phải khẳng định rằng cuộc cách mạng tư sản Pháp là một cuộc " đại cách mạng”. Gọi đại cách mạng Pháp 1789 là cách mạng tư sản bởi:

Thứ nhất, đây là cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi giai cấp tư sản Pháp

Thứ hai, sau cuộc cách mạng này, chế độ quân chủ chuyên chế bị lật đổ và chế độ tư sản lên nắm quyền.

Thứ ba, giai cấp thống trị sau cách mạng là giai cấp tư sản Pháp, còn nông dân và người lao động khác làm việc phục vụ cho giai cấp tư sản, tuy chỉ chiếm một nhóm nhỏ nhưng đã trở thành giai cấp thống trị.

* Trong cuộc cách mạng đã dẫn đến sự ra đời của bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (26/8/1789): Tuyên ngôn gồm 17 điều khoản, được mở đầu với điều I như sau: Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng. Bản tuyên ngôn đã nêu lên công thức nổi tiếng của cách mạng Pháp Tự do -Bình đẳng - Bác ái. Trong 17 điều khoản của tuyên ngôn, ta thấy toát lên hai vấn đề chính: công nhận, khẳng định quyền tự do của con người, tuyên bố những nguyên lý tổ chức chính trị nhằm bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Trong khi chế độ phong kiến còn thống trị hầu hết châu Âu, bản tuyên ngôn đã mạnh dạn tuyên bố nguyên tắc bình đẳng đối với mọi người. Ðó là văn bản khai tử chế độ cũ và là cương lĩnh của chế độ mới.

* Ðây là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nó đã lật đổ những quan hệ lỗi thời của nền quân chủ chuyên chế phong kiến. Cuộc cách mạng này đã tuyên bố một chế độ chính trị mới ở Pháp, đã giải phóng nông dân khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển. 
Trong cuộc cách mạng này, giai cấp tư sản đã đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu đã tham gia vào tiến trình của cách mạng và đã đưa cách mạng tiến lên, vượt ra ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Chính sự tham gia của quần chúng nhân dân đã làm cho cách mạng Pháp mang tính dân chủ rộng rãi và triệt để cách mạng so với những cuộc cách mạng trước nó. 

* Hạn chế của cuộc cách mạng Pháp 1789

          Cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789 có tác dụng rất to lớn nhưng vẫn mang tính chất hạn chế. Cách mạng tư sản Pháp không hề có ý định tiêu diệt chế độ bóc lột mà vẫn duy trì chế độ tư hữu, không giải phóng hoàn toàn người lao động khỏi ách áp bức giai cấp. Mặt khác, nó là một "vết thương” khiến kinh tế nước Pháp kiệt quệ và không gượng dậy được, từ một nước có lãnh thổ lớn, khí hậu tốt, vị trí tuyệt vời, đất đai phì nhiều, văn hóa phong phú mà không vượt nổi các nước Châu Âu khác. Song đó cũng là một sự kiện lịch sử trọng đại có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của nước Pháp cũng như của thế giới.

2. Ý nghĩa đối với quốc tế

-  Đối với cách mạng Châu Âu

         Cách mạng Pháp có một ý nghĩa lịch sử quan trọng không những đối với lịch sử nước Pháp mà cả đối với lịch sử châu Âu lúc bấy giờ. Những tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp ảnh hưởng đến các nước châu Âu và làm cho chế độ phong kiến ở các nước này bị lung lay. "Cách mạng Pháp xứng đáng là một cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã diễn tiến dưới dấu hiệu của cách mạng Pháp" (Lê Nin toàn tập).

    Cuộc cách mạng Pháp, đã gây ra ảnh hưởng tới các xứ khác của châu Âu, đã trở nên một thứ triết học phổ biến, tuyên bố về các quyền lợi của con người bất kể chủng tộc, quốc gia và thời gian.

    Tại Ba Lan, những người muốn tổ chức lại đất nước, đã hoan nghênh kiểu mẫu này còn tại nước Anh, số nghị viên kiểm soát quốc hội cũng muốn bắt chước các đường lối thay đổi của nước Pháp gồm các nhân vật cấp tiến như Thomas Paine, Dr. Richard Price và những người không có đại diện tại Hạ Viện (the House of Commons). Qua xứ Hungari, các địa chủ tìm cách chống lại Vua Joseph II trong khi đó tại xứ Ái Nhĩ Lan, người dân cũng xao động. Đã có các cuộc đình công tại Hamburg nước Đức và nông dân Đức nổi loạn tại nhiều nơi.

- Đối với cách mạng Việt Nam

Cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) đã để nhiều bài bài học quí giá cho Cách mạng Việt Nam sau này. Đó là một cuộc cách mạng thành công phải là một cuộc cách mạng triệt để, trong đó phải có một giai cấp lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng chủ chốt, phải giải phóng được toàn bộ tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Cuộc cách mạng đó phải đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

     Đặc biệt, cuộc cách mạng này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Hồ Chí Minh về "Tự do – Bình đẳng – Bác ái”,điều đó được thể hiện rất rõ trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945.

3. Liên hệ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 với cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam

Cả hai cuộc cách mạng đều hình thành trong bối cảnh xã hội xuất hiện trào lưu tư tưởng lãng mạn. Ở Pháp với trào lưu tư tưởng "ánh sáng” còn ở Việt Nam là sự xuất hiện của phái tự lực văn đoàn.

Cũng như cách mạng Pháp 1789, cách mạng tháng 8-1945 đã diễn ra trong sự suy sụp của quyền lực chính trị. Tại Pháp năm 1789, ngân sách nhà nước cạn kiệt, vua Louis XVI phải triệu tập hội đồng quốc dân để đòi hỏi nhân dân những hy sinh mới vào giữa lúc mà tư tưởng dân chủ đã chín muồi sau hơn một thế kỷ thai nghén. Hội đồng quốc dân đã nhanh chóng trở thành hội đồng cách mạng lật đổ chế độ quân chủ. Ở Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp bị Nhật lật đổ, rồi Nhật cũng thua trận và phải đầu hàng trong khi nguyện vọng độc lập đã lên cao. Đảng cộng sản dù lực lượng nhỏ đã nắm được chính quyền, vì đây là lực lượng duy nhất có tổ chức vào lúc đó. Phong trào lãng mạn đóng góp vào thắng lợi của đảng cộng sản.

     Hậu quả: Nước Pháp không gượng dậy được sau cách mạng 1789, từ một cường quốc mạnh nhất thế giới họ trở thành một cường quốc trung bình, trước khi trở thành một nước trung bình. Bạo lực cách mạng xuất phát từ chủ nghĩa lãng mạn và được nuôi dưỡng bởi chủ nghĩa lãng mạn đã chiếm giữ tâm hồn người Pháp, khiến cách mạng 1789 và giai đoạn Kinh Hoàng được nối tiếp bởi những cuộc chiến tranh chinh phục thảm khốc của Napoléon. Cuối cùng nước Pháp bại trận, kiệt quệ, chia rẽ và liên tục suy thoái.

       Cũng giống như cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tháng 8 đã được nối tiếp bằng 30 năm chiến tranh với kết quả là chế độ cộng sản và đất nước lâm vào khó khăn về mọi mặt.

Sự khác nhau:

Về quy mô: Cách mạng tư sản Pháp có quy mô to lớn hơn.

Về lực lượng lãnh đạo: Cách mạng tư sản Pháp giai cấp lãnh đạo là giai cấp tư sản. Ở Việt Nam là giai cấp vô sản.

Về tính chất: Cuộc cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng không triệt để, còn cách mạng tháng 8/ 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng triệt để.

Một điều khác biệt giữa cách mạng 1789 và cách mạng tháng 8: nếu cách mạng 1789 chỉ lãng mạn một cách ngây thơ và bồng bột thì cách mạng tháng 8 lại do một nhóm người chuyên nghiệp được huấn luyện theo kỹ thuật khủng bố của Nga, tổ quốc của đam mê, tàn bạo và khủng bố. Những người này lợi dụng phong trào lãng mạn cho tham vọng quyền lực và thống trị.

 

KẾT LUẬN

Có thể nói rằng cuộc cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng chưa triệt để hoàn toàn, nhưng với những ý nghĩa to lớn mà cuộc cách mạng để lại đã tạo nên bước ngoặc trong lịch sử thế giới. Qua cuộc cách mạng đã khẳng định được vai trò lãnh đạo tài tình của giai cấp tư sản Pháp và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của tầng lớp nhân dân Pháp. Ảnh hưởng sâu rộng của nó góp phần tác động đến các phong trào đấu tranh trên toàn thế giới. Với những mặt tích cực và hạn chế trong cuộc cách mạng này để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho những cuộc cách mạng về sau và cuộc cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam cũng là một trong những cuộc cách mạng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng này. Đặc biệt bản tuyên ngôn "Nhân quyền và dân quyền” của  cuộc cách mạng Pháp đã ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đến việc ra đời của các bản tuyên ngôn về quyền độc lập tự do của con người ở các cuộc cách mạng sau này.

 

 

Chủ đề: TÀI LIỆU HỌC TẬP | Đăng bởi: hoangtu_bongdem2912_86
Lượt xem: 795 | Tải về: 40 | Rating: 0.0/0
Tổng số ý kiến: 0
Chỉ thành viên mới có thể thêm các ý kiến.
[ Đăng ký | Đăng nhập ]
 
Trang chủ | Lý lịch! | Ghi danh | Đăng xuất | Đăng nhập 

Website được phát triển bởi các thành viên lớp 08cvhh - Khoa Ngữ Văn - Trường đại học Sư Phạm Đà Nẵng

== Website bắt đầu hoạt động từ ngày 01 tháng 5 năm 2011==