Trang chủ » Files » TÀI LIỆU HỌC TẬP |
15/05/2011, 7:58 AM | |
MỞ ĐẦU Ở bất cứ tộc người nào
trên thế giới,lễ hội dân gian truyền thống cũng đều là một thành tố quan trọng
góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc ấy.Lễ hội dân gian là hoạt động phản
ánh tương đối đầy đủ điều kiện sinh hoạt vật chất,đạo đức xã hội,đời sống tín
ngưỡng,vũ trụ quan,thế giới quan,nhân sinh quan...của chính dân tộc đó. Người Chăm trải qua những thăng trầm lịch sử vẫn bảo toàn được bản sắc văn hóa
dân tộc mình,một phần trọng yếu là do vẫn gìn giữ được ngôn ngữ,chữ viết,sắc
phục và đặc biệt là các lễ hội truyền thống trong đó có âm nhạc-một trong những
yếu tố quan trọng nhất tạo nên lễ hội NỘI DUNG
1.Giới thiệu về một số nhạc cụ của người Chăm Người Chăm là một tộc
người có nền âm nhạc rất phong phú và đa dạng. Trải qua những bước thăng trầm
của lịch sử nền âm nhạc của tộc người Chăm cũng phát triển một cách đặc biệt,
vừa mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang các vùng, các tộc người xung quanh, vừa học
hỏi, tiếp nhận nền âm nhạc của các tộc người khác. Chính điều này đã tạo nên
một kho tàng âm nhạc dân gian Chăm vô cùng độc đáo và giàu bản sắc. Trong nền âm nhạc Chăm,
nhạc cụ truyền thống đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh
thần của cộng đồng Chăm. Hầu hết các lễ hội, lễ nghi, tín ngưỡng tôn giáo của
tộc người Chăm đều không thể thiếu nhạc cụ truyền thống. Hệ thống nhạc cụ truyền
thống Chăm được chia làm 2 loại: Một là, các nhạc cụ đã
thất truyền như đàn champi, kaping, đàn rabap…các nhạc cụ này chỉ còn được ghi
nhận qua các văn bản cổ của người Chăm và trong các ký ức người già. Hai là, nhạc cụ hiện đang
tồn tại như đàn kanhi, kèn xaranai, trống baranưng, trống ginơng… những nhạc cụ
này hiện được người Chăm sử dụng rất phổ biến trong các sinh hoạt văn hóa của
mình. Dựa trên các tiêu chí về
về hình dáng, nguyên tắc phát âm, cấu trúc, tính năng âm nhạc… mà người Chăm đã
có sự phân loại theo hệ thống cụ thể như sau: - Nhóm gõ: bao gồm những
nhạc cụ có màng rung và nhạc cụ tự thân vang: Ginơng: trống đôi 2 mặt, Baranưng: trống 1 mặt, Hagar praung: trống lớn 2 mặt,
Hagar xit: trống nhỏ 2 mặt, Ceng đap (sar): chiêng bằng, Ceng tathuw: chiêng có
núm, Grong: lục lạc, Chụm chọe - Nhóm hơi: Kèn xaranai,
Axơng: tù và, Waw: sáo, Kadait: tù và sừng trâu - Nhóm dây: Đàn kanhi: làm
bằng mai rùa, Đàn champi, Đàn kaping, Rabap: đàn bầu. * Trong hệ thống nhạc cụ
trên, có 3 loại nhạc cụ được cộng đồng Chăm thường được sử dụng và xem như chủ
đạo là: -Kèn Xaranai:. Thân kèn dài 20-21cm làm
bằng gỗ quý hoặc sừng rỗng ruột.Kèn có 7 lỗ ở trên và 1 lỗ ở dưới. Loa kèn dài
10-11cm làm bằng ngà voi,sừng trâu hoặc gỗ quý.Loa kèn tròn,bầu ở phần giữa và
loe ở đầu loa. Chuôi kèn dài 6cm làm bằng
bạc hoặc đồng thau dạng lá,uốn theo hình ống từ bé đến lớn.Phần lớn đút vào
thân kèn,phần nhỏ có gắn dăm (lưỡi gà) làm bằng lá nón hay lá buông -Trống Pa ra nưng: Trống chỉ có một mặt làm bằng da hoẵng hoặc da dê,không dùng dùi mà vỗ bằng các
ngón của hai bàn tay.Thân trống cao 9cm,dày 2cm,có hình chậu hơi lượn cong,làm
bằng gỗ lom hoặc gỗ cốc. -Trống
Ghì nằng: Là loại nhạc cụ đầy uy lực
và sinh khí trong bộ nhạc của tộc người Chăm,chỉ được sử dụng theo nguyên tắc
có đôi,đặt tựa vào nhau theo hình chữ nhân.Trống hình trụ,hơi bầu ở giữa
thân.Chiều dài thân trống từ 75-80cm,làm bằng cây gỗ lim xanh đục rỗng
ruột.Thành trống dày từ 2-3cm.Mặt lớn bịt bằng da trâu,đường kính 28cm,bao giờ
cũng đặt nghiêng tiếp đất ở vành trống (mặt âm) và dùng dùi gõ (dương).Mặt nhỏ
bịt bằng da hoẵng hoặc da dê,đường kính 24cm (mặt dương) được vỗ bằng bàn tay
trái (âm) Theo quan niệm người Chăm
về 3 loại nhạc cụ: kèn Saranai, trống Basanưng, Ginăng là tượng trưng cho con
người và một vũ trụ thu nhỏ (trời, đất) hoàn chỉnh. Do vậy khi biểu diễn 3 nhạc
cụ này không được tách rời nhau mà luôn hòa quyện vào nhau, trong đó kèn
Saranai là nhạc cụ chủ đạo. Ba nhạc cụ này đã tạo nên linh hồn cho lễ hội Chăm. Kèn
Saranai, cấu tạo của loại kèn này là tượng trưng cho cái đầu của con người, gồm
7 lỗ (7 nốt) tượng trưng cho thị giác, khứu giác, thính giác và vị giác. Kèn
Saranai được nghệ nhân thổi bằng miệng, tiếng nhạc véo von, thánh thót gần với
tiếng người, tiếng chim. Trống
Baraưng biểu tượng cho thân mình của con người. Khi sử dụng loại nhạc cụ này
nghệ nhân đặt trống trước ngực. Ngoài ra, trống Baraưng còn có tính chất biểu
tượng cho vũ trụ, sự vật hiện tượng liên quan đến đời sống tâm linh triết lý
của con người, cụ thể như sau: Trống Baraưng cấu tạo có 12 tek (khóa) ngoài
chức năng để căng mặt trống ra, nó còn biểu tượng cho 12 con giáp trong năm, và
cũng là tháng trong năm. Trên mặt trống có một hình tròn biểu tượng cho trái
đất hình tròn, trong hình tròn đó được chia thành hai màu: Màu đỏ tượng trưng
cho Dương, màu xanh tượng trưng cho Âm. Như chúng ta đã biết, trong đời sống
tâm linh của người Chăm, thuyết Âm - Dương chi phối rất lớn, mọi sự vật đều có
Âm - Dương (Naow - Nay), trong Dương có Âm, và ngược lại. Xung quanh vòng tròn
giữa trống có những hoa văn (Hla) như là lá sen đó là biểu tượng cho bốn phương
tám hướng. Đối
với trống Ginăng, tính biểu tượng cho loại nhạc cụ này là đôi chân của con
người. Trống luôn luôn dùng một cặp (1 đực, 1 cái) do hai nghệ nhân sử dụng,
khi đánh họ ngồi đối diện nhau, hai chân chống đỡ lấy trống, trống được đặt
chéo nhau theo hình chữ X, đầu cao đầu thấp. Như đã đề cập ở trên, trong thuyết
Âm - Dương của người Chăm là trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Trong một cái
trống Ginăng, mặt dùng dùi để đánh là Dương, và mặt dùng tay để vỗ là mặt Âm. Tóm
lại, nhạc cụ truyền thống của người Chăm rất phong phú và đa dạng, đặc biệt là
bộ ba nhạc cụ (Saranai, Baraưng, Ginăng) là những nhạc cụ có vai trò hết sức
quan trọng cấu thành nên âm nhạc truyền thống Chăm. Các nhạc cụ truyên thống
của người Chăm không chỉ có giá trị về mặt âm nhạc học, mà còn có giá trị trong
đời sống văn hóa tinh thần, có quan hệ mật thiết với đời sống con người và thế
giới xung quanh, và nó không thể thiếu được trong lễ nghi tín ngưỡng dân gian
của người Chăm. Đó là sự quan hệ, gắn bó hết sức hữu cơ 2. Quá trình hình thành những điệu múa dân gian Chăm Người Chăm có tín ngưỡng
đa thần, vạn vật hữu linh, những ngọn núi dòng song, cửa biển, cây cổ thụ…đều được
họ xem là có linh hồn, có khả năng phù hộ độ trì hoặc có thể đe doạ cuộc sống
của con người. Với trình độ tư duy đơn giản, trình độ khoa học chưa phát triển,
người Chăm chưa lý giải được các hiện tượng tự nhiên như mây mưa, sấm chớp mà
tất cả đều cho là quyền năng của thượng đế sinh ra. Vì vậy, để được may mắn,
bình an, được mùa màng bội thu, mưa thuận gió hoà, tôm cá đầy khoang, con đàn
cháu đống…thì họ tôn thờ các vị thần linh như thần núi (Patau Cơk), thần sông
(Patau Ia), thần biển (Pô Riyak), thần mây, thần mưa, sấm chớp…họ phải làm lễ
thờ cúng thần linh. Và múa chính là tiếng nói của họ đến với thần linh, tất cả
những mong muốn của họ được gửi đến thần linh qua những điệu múa. Trong sinh hoạt đời sống
hàng ngày, người Chăm đã tạo ra những điệu múa mô phỏng những hình ảnh rất gần
gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày của mình như đi biển, đi lấy nước, chống
thú dữ…từ những điệu múa mô phỏng đời sống sinh hoạt đó, họ đã dùng để phục vụ
cho những nghi lễ - lễ hội và phục vụ cho chính cuộc sống bản thân mình. Chính từ tín ngưỡng dân
gian và cuộc sống hàng ngày của mình mà người Chăm đã sáng tạo ra các điệu múa
tương ứng với những vị thần. Theo tống kê thì người Chăm có tất cả 80 điệu múa
và tương ứng với từng điệu múa là 80 vị thần của họ. Giới thiệu về một số loại
vũ điệu chăm Vũ
điệu múa Chăm thường bắt nguồn từ những động tác lao động, sinh hoạt thường
ngày và đều phản ánh những ước vọng của con người trước thần linh, thiên nhiên
và cuộc sống cộng đồng. Những điệu múa thể hiện sự cầu mong cho mưa thuận gió
hoà, con cháu khoẻ mạnh, yên ổn làm ăn và thờ phụng tổ tiên, nhưng cũng có
những điệu múa thể hiện ý chí quật cường sẵn sàng đương đầu mọi khó khăn thử thách
trong cuộc sống (múa roi). Múa
Chăm gồm có ba loại: Múa tôn giáo cũng diễn ra vào dịp lễ tết,
nhưng trang trọng hơn, do các cô gái đồng trinh đội lễ vật múa ở đền, bày tỏ
lòng tôn kính với các vị thần linh. Cho đến nay "múa bóng” được coi là mang đậm
tính tôn giáo. Dàn nhạc đệm cho múa bóng là hai cái trống paranưng và một chiếc
kèn saranai, còn vũ điệu khi múa phô diễn hết vẻ đẹp của con người. Múa
Cung đình hay còn gọi là múa tiên nữ Apsara, điệu múa này ngày xưa chỉ vua chúa
mới được thưởng thức. Theo truyền thuyết Apsara là nữ thần của các cung nữ phục
vụ các vị thần. Nhiều điêu khắc trên các hệ thống tháp Chăm hiện còn lưu giữ
dọc vùng đất Nam Trung bộ đều có những hình tượng mô phỏng vũ nữ Apsara với
những đường nét căng tròn, mềm mại, uyển chuyển. Múa
dân gian, còn gọi là múa cộng đồng, thường diễn ra vào các ngày lễ đầu năm, đầu
mùa. Những điệu múa đặc trưng là đoá pụ (có nghĩa là đội nước, khi múa, những
cô gái đội một cái bình trên đầu- đội đầu là một hình thức vận chuyển phổ biến
của người Chăm), múa quạt, múa khăn, múa trống paranưng, múa roi, múa chèo
thuyền. Múa chèo thuyền được coi là điệu múa lâu đời nhất của người Chăm, thể
hiện sinh hoạt lao động vùng biển của con người. Múa dân gian Chăm tuy có nhiều điệu
múa khác nhau nhưng nhìn chung có 4 điệu múa chính có mặt xuyên suốt trong nghệ
thuật múa. Bốn điệu múa (4 động tác) được người Chăm sử dụng phổ biến là Biyên,
Kmân, Mrai, Chron. Sau này những điệu múa trên đã được nâng cao và hình thành
nên những điệu múa như Patra, Chaligia. Và cho đến ngày nay là điệu Biyên, điệu
Chaligia, điệu Patra, điệu Chron chính là 4 điệu múa được sử dụng nhiều nhất
trong múa Chăm. Mỗi điệu múa này có những nét riêng thể hiện đặc trưng theo tên
gọi của mình. Theo truyền thuyết của
người Chăm, ngày xưa dưới trần gian đầy rẫy ma quỉ, thú dữ… hoành hành cuộc
sống con người. Thiên hoàng Pô Kuk sai con gái là Pô Ina Nưgar xuống trần gian
để xây dựng xứ sở Chăm và cho sự sinh tồn của của người Chăm. Bà đã bốc 4 vì
tinh tú và cho nở ra 4 con thượng cầm là chim công (Biyên), điểu cầm (Kmân), gà
lôi (Mrai), và gà tây (Chron) để cùng các nàng tiên cưỡi xuống trần gian. Khi
xuống đây bà đã chỉ cho người Chăm biết trồng dâu nuôi tằm, trồng lúa, dệt vải,
dạy nhân dân chống lại thú dữ…tạo nên cảnh quốc thái dân an cho người Chăm. Khi
nhìn những con chim bay lượn rất đẹp, người Chăm đã bắt chước các động tác của
chim để sáng tạo 4 động tác mang tên 4 loài chim này. Qua truyền thuyết trên cho
thấy, bốn điệu múa được biết đến là Biyên, Chron, Kmân, Mrai. Nhiều người cho
rằng đây là 4 điệu múa cơ bản và có mặt trong hầu hết các lễ nghi - lễ hội
Chăm. Tuy nhiên qua xác minh và tìm hiểu thì chúng tôi thấy có 4 điệu múa được
xem là cơ bản, phổ biến và có mặt trong hầu hết lễ nghi - lễ hội Chăm. Đó là 4
điệu múa: Biyên (điệu múa công), Patra (điệu hoàng tử), Chron (điệu gà tây),
Chaligia (điệu quý phái). Đấy là bốn động tác dành riêng cho nữ. * Ragăm Biyên (Điệu múa
công) + Trên cơ sở động tác múa
Biyên đã nảy sinh nhiều điệu, động tác múa quạt khác nhau. Mặc dù có sự khác
nhau nhưng người xem vẫn bắt gặp quán xuyến và được bộc lộ rất rõ nét. Động tác
múa Biyên được xem là có giá trị đặc sắc trong kho tàng nghệ thuật múa dân gian
Chăm. * Sự vận động các động tác
múa Biyên: + Hai tay cầm quạt xoè
căng ra. + Hai tay duỗi thẳng để
cách hông 10 phân. + + Bật nhanh xuống và
chuyển hướng + Động tác đưa tay ra phái
trước (gần như là động tác xẩy thóc) Đối với người Chăm múa
luôn gắn liền với nhạc. Khi âm nhạc vang lên thì ở đó có những người múa. Trong
múa Biyên có điệu nhạc tương ứng là nhạc trống Biyên. Ragăm Patra (Điệu múa hoàng tử)
Đây là điệu múa để diễ tả
hình ảnh của vị hoàng tử trẻ người Chăm gọi là Pô Patra. Động tác múa trong
điệu này được biểu diễn như sau: Ragăm Chron (Điệu múa gà
tây) Đây là điệu múa được mô
phỏng theo hình ảnh của con gà tây. Điệu múa này được biểu diễn như sau: Nhạc trong
điệu múa Chron: cũng được gọi theo tên tương ứng của múa đó là nhạc điệu Chron. Ragăm Chaligia
(Điệu quý phái) Điệu múa quý
phái được biểu diễn như sau: Âm nhạc trong
điệu Chaligia còn gọi là điệu Chalitai: Dù múa với đạo
cụ nào cũng sử dụng 4 động tác chủ yếu này, có thể thêm bớt chút ít về giác độ,
nhưng vẫn giữ 4 động tác cơ bản mà trở thành quy định. 3.Mối quan hệ giữa nhạc cụ truyền thống của tộc người Chăm
với nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên Các dân tộc Mã Lai – Đa
Đảo trong quá trình sống đã có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa lẫn nhau kể cả
văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần. Tuy nhiên trong số các dân tộc nói
trên, tộc người Chăm có trình độ cao hơn về nhiều mặt từ cách thức xã hội, nghệ
thuật, chữ viết… Do đó, văn hóa Chăm có sự ảnh hưởng mạnh mẽ sang các vùng, các
tộc người xung quanh và lẽ dĩ nhiên, trong đó có thể có sự ảnh hưởng qua lại
của các nhạc cụ truyền thống giữa các tộc người . Hệ thống nhạc cụ của người
Chăm khá đa dạng. Tuy nhiên, trải qua quá trình sử dụng thì đã có một số ít
nhạc cụ đã thất truyền và chỉ còn tồn tại ở các tộc người như Raglai, Êđê,
Giarai, Churu…Trong các loại nhạc cụ hơi của các tộc người Raglai, Êđê… đáng
chú ý là loại kèn bầu mà người Raglai gọi là rơkle, loại lớn hơn gọi là kuwach,
còn người Êđê gọi là đinh năm, người Churu gọi là rơkel. Rơkle được cấu tạo từ
6 ống nứa nhỏ, có lưỡi gà, được gắn vào quả bầu khô và hàn kín bằng sáp mật
ong. Rơkle cho 6 âm thanh tương ứng với các âm như: đô, rê, mi, son, la, si.
Kèn của người Raglai, Giarai, Êđê…giống nhau ở chỗ có 6 ống: 4 ống hàng trên
đảm nhiệm phần giái điệu, 2 ống ở phần dưới đảm nhiệm phần bè, đệm. Ngoài ra,
còn phải kể đến tawao (Raglai), tawao còn thấy ở người Êđê với tên là đinh buôt
chôc (ống khóc) hoặc đinh buôc mu-ing (ống hát), người Giarai gọi là vô-ông,
người Chăm gọi là wao, người Churu gọi là kwao. Đó là chiếc sáo dọc có 4 lỗ,
tiếng tawao trong sáng, mượt mà, bay bổng rất thuận lợi cho việc diễn tả tình
cảm con người. Một nhạc cụ hơi khác là
kèn awach (tên gọi theo của người Raglai), người Chăm gọi là kadait. Awach là
loại nhạc cụ được làm bằng sừng trâu, bò hay dê rừng. Sừng được cắt thủng hai
đầu, đầu nhọn được dùi bằng lỗ nhỏ thông với phần rỗng của sừng để làm lỗ thổi,
đầu lớn dùng sáp mật ong để đắp thành cái bầu nhỏ, có tác động cộng hưởng.
Tiếng awach rất trầm, có độ vang xa. Awach không tham gia vào diễn tấu với các
nhạc cụ khác mà chủ yếu vào công việc kêu gọi, ra hiệu lệnh hoặc gây không khí
huyên náo. Trong bộ dây, có 1 nhạc cụ
đáng chú ý là đàn goong rel (theo tiếng Giarai). Tùy từng vùng, từng tộc người
có tên gọi khác nhau. Người Raglai gọi là chapi hoặc chaping, người Chăm gọi là
champi. Ngoài ra còn có k’ny, loại nhạc cụ dây kéo của Giarai, Êđê tuy nhiên,
k’ny không có bầu cộng hưởng như đàn kanhi của người Chăm. Khi chơi đàn để
khuếch đại âm thanh, người ta dùng 1 sợi dây, 1 đầu dây buộc vào dây đàn, đầu
kia buộc vào 1 mảnh mo măng tre có hình tròn. Nghệ nhân phải ngậm toàn bộ mảnh
tròn này vào miệng sao cho 1 mặt của nó sát vào hàng răng cửa và giữ cho dây tơ
căng. Ở loại nhạc cụ này, người nhạc công thay đổi khẩu hình của mình làm biến
dạng âm sắc của cây đàn. Âm lượng của k’ny rất nhỏ, âm thanh được phát ra nghe
rất độc đáo, gần giống giọng của con người. Riêng bộ gõ của các tộc
người Một loại nhạc cụ màng rung đáng chú ý khác là hơgơr tăk m’lia (hơgơr păk) là
danh từ của tộc người Giarai để chỉ một loại trống nhỏ thường dành cho cá nhân
sử dụng. Loại trống này không phổ biến ở các dân tộc Tây Nguyên. Đây là loại
nhạc cụ giống hagơr xit của người Chăm. Hơgơr tăk m’lia có âm thanh 1 bên trầm
có màu âm đục, 1 bên cao có màu âm vang thanh thoát hơn. Hai mặt có âm thanh
khác nhau nên để diễn tả những tình cảm lắng đọng, sâu sắc. Nói đến cồng – chiêng
(theo cách gọi của người Việt) hoặc ching – ceng (người Raglai), knah – ching
(người Êđê), hoặc ceng đap – ceng tathuw (người Chăm) có nghĩa là chỉ hai loại:
cồng có núm và chiêng bằng không có núm. Tuy nhiên, cũng với hai loại nhạc cụ
này người Chăm có cách gọi ngược lại, nếu như cồng có núm được gọi là ching hay
knah thì người Chăm gọi là sar. Còn chiêng gọi là che. Cồng và chiêng là hai loại
nhạc cụ rất đặc thù ở Việt Nam và Đông Nam Á. Vùng Tây Nguyên được xem là một
trong những trung tâm cồng chiêng của Đông Nam Á. Hầu hết các tộc người cư trú
trên địa bàn Tây Nguyên đều có dàn cồng chiêng của riêng mình. Có tộc người có
đến 2-3 dàn chiêng cho các nghi lễ khác nhau. Người Êđê có chiêng knah, gồm 6
chiêng không có núm, 3 chiêng có núm và 1 hơgơr. Người Raglai có 1 dàn chiêng
aráp, người Giarai, Chăm H’roi… có dàn chiêng trum. Âm thanh của cồng – chiêng
trầm, vang vọng. Ching – cheng được sử dụng rộng rãi trong đời sống của đồng
bào Tây Nguyên, đặc biệt âm thanh của nó là ngôn ngữ giao tiếp với thế giới
siêu nhiên. Hệ thống nhạc cụ người
Chăm rất đa dạng và phức tạp. Trong đó, có một số nhạc cụ có tên gọi, cấu tạo
và chức năng tương tự như các nhạc cụ của các tộc người cùng ngữ hệ Ngày nay, để tìm hiểu về
hệ thống nhạc cụ Chăm không thể không tìm hiểu qua nhạc cụ truyền thống của các
dân tộc Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên để có những so sánh, đối chiếu và trong
tương lai cũng có thể phục hồi lại một số nhạc cụ đã thất truyền của người Chăm.
Đây cũng là sự góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật
dân tộc. Như vậy, nhạc cụ truyền
thống của người Chăm và các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên có mối quan
hệ rất gần gũi nhau khôngchỉ về cấu trúc, hình dáng, chức năng mà cả âm thanh,
thang điệu. Tuy nhiên, mỗi tộc người lại có những nhạc cụ đặc trưng của riêng
mình. Điều này cho thấy được yếu tố thống nhất trong đa dạng về các loại nhạc
cụ truyền thống của tộc người Chăm với các tộc người Mã Lai – Đa Đảo ở Tây Nguyên. KẾT LUẬN Di sản văn hóa vật chất từ đền tháp, đồ tế tự như áo quần, võng lộng, kiệu khiêng đến thức ăn truyền thống và nhạc cụ… tồn tại trong lễ hội Chăm không chỉ là biểu hiện dưới dạng vật chất đơn thuần mà nó là biểu tượng tâm linh mang ý nghĩa tổng hòa. Sự tổng hòa ấy là sự gắn kết với nhau, quan hệ nhiều với nhau trong một không gian linh thiêng. Đó là mối quan hệ giữa con người với cảnh quan thiên nhiên, cảnh quan di tích; mối quan hệ giữa con người với tâm linh; mối quan hệ giữa con người với các biểu tượng (vật thờ, tượng thờ) và mối quan hệ giữa con người với nhau… Toàn bộ những mối quan hệ đó chuyển hóa bổ sung lẫn nhau, để rồi chắt lọc, cô đúc, tinh chất lại thành những dạng thức vật chất trong lễ hội Chăm. Âm nhạc của người Chăm nó chung không những là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc mà nó còn làm phong phú thêm nên văn hóa Việt. Nhưng phong tục, ước vọng, mong muốn sống chan hòa với tự nhiên đã đượcngười Chăm thể hiện trong những nhạc cụ, những điệu múa. Với ý nghĩa đó âm nhạc của người Chăm trở thành nơi bảo tồn văn hóa vật chất của người Chăm khá đồ sộ, là bảo tàng dân gian sống động đáp ứng đời sống tinh thần của người Chăm DANH SÁCH NHÓM 6 1. Nguyễn Thanh Tùng 2. Nguyễn Thị Thu Huyền 3. Nguyễn Hải Yến 4. Trương Văn Thạnh 5. Phạm Văn Tuân 6. Đinh Thị Vượng 7. Ôn Minh Hiền Vi 8. Lê Thị Tuyết 9. Trần Văn Vịnh 10. Hoàng Đình Truyền 11. Phan Ngọc Trung | |
Lượt xem: 882 | Tải về: 27 | Rating: 0.0/0 |
Tổng số ý kiến: 0 | |