Chào mừng Các bạn đã ghé thăm Website của tập thể lớp chúng tôi vào Thứ 6, ngày 29/03/2024, lúc 5:24 PM. Chúc bạn tìm được những điều bạn cần trên Website của lớp chúng tôi. Nếu Bạn muốn Download tài liệu thì xin vui lòng đăng nhập để thấy linhk, nếu có thắc mắc gì xin vui lòng liên hệ với Quản trị Website theo số điện thoại: 0985639026 hoặc Email: chinh08cvhh@gmail.com. Xin chân thành cảm ơn các bạn.
Trang chủ » Articles » Văn hóa - Phong tục

Phan Quốc Anh- Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận [2]

Phan Quốc Anh- Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận [2]


alt
Chương 1: Nhìn lại tình hình nghiên cứu

Với một bề dày về lịch sử, văn hóa của dân tộc Chăm là một trong những di sản văn hóa đồ sộ, phong phú trong kho tàng văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, là một mảng màu làm nên sự đa dạng, sinh động trên bức tranh toàn cảnh của bản sắc văn hóa Việt Nam. Với nhiều lớp văn hóa tích tụ, bồi đắp trong quá trình lịch sử dài lâu, văn hóa Chăm cho đến nay vẫn luôn là đối tượng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước. Có thể nói, trong tư liệu nghiên cứu về văn hóa các dân tộc, tư liệu nghiên cứu về văn hóa Chăm là một trong những kho tàng đồ sộ nhất, giàu có nhất, trải dài suốt từ đầu công nguyên đến nay (Từ Tiền Hán thư, Hậu Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống Sử v.v... cho đến ngày nay, các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu). Theo thống kê của Nguyễn Hữu Thông và các tác giả của Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật miền Trung (có thể là chưa hoàn toàn đầy đủ) thì đã có tới 2.278 công trình, bài viết khoa học về văn hóa Chăm của các tác giả trong và ngoài nước đã được xuất bản(1).

I. Giai đoạn trước năm 1954

Khi suy vong, các triều đại Chăm Pa không để lại tư liệu thành văn về lịch sử văn hóa Chăm Pa. Các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu Việt Nam và Trung Quốc. Những tư liệu về Chăm Pa của Trung Quốc ghi lại chủ yếu trongHán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử v.v... Các nhà nghiên cứu đều dựa vào những sử liệu này để dựng lại lịch sử Lâm ấp - Hoàn Vương - Chiêm Thành. Những tư liệu lịch sử của Việt Nam liên quan đến sử Chiêm Thành có thể tìm thấy trong Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư và một số sử liệu của các triều đại từ thời Lý - Trần đến triều Nguyễn. Nhưng những sử liệu nói trên chủ yếu nói về việc triều cống, giao tranh, hòa hiếu.

Những tư liệu của Trung Quốc viết về phong tục tập quán của người Chăm xưa cũng không có hệ thống, rất hiếm hoi, rời rạc và sơ sài, nhiều khi thiếu chính xác. Ma Touan Lin (Mã Đoàn Lâm), một sử gia Trung Quốc thế kỷ XIII có ghi: "Dân cư xây tường nhà bằng gạch, bao bọc bằng một lớp vôi. Nhà cửa đều có sân gọi là "Kalan”. Cửa ra vào thường hướng về phía bắc, đôi khi hướng về phía đông - tây, không có quy luật nhất định nào cả…”(2). Chúng ta đều biết, người Chăm không làm nhà hay đền tháp quay về hướng bắc hay hướng tây, vì hướng bắc là hướng của ma quỷ, hướng tây là hướng "chết”. Với cách nhìn bằng con mắt "thiên triều” của một nước lớn của các triều đại Trung Hoa, lấy mình làm "trung tâm”, nhìn bốn phía đều là chư hầu "mọi rợ”: "Đông di, Tây nhung, Nam man, Bắc địch”, những sử gia Trung Hoa ghi lại những tư liệu không chính xác đối với những nước phải hàng năm tiến cống "thiên triều” là chuyện bình thường. Cựu Đường thư mô tả người Chăm là "dân rất tin Phật, sùng đạo Thích, nhiều người đi tu”(3). Trong thực tế, Phật giáo chỉ tồn tại một giai đoạn ngắn và chỉ ở một bộ phận không lớn trong dân chúng Chăm Pa(4).

 

Tư liệu cổ nhất của người châu Âu viết về người Chăm có lẽ là của một người gốc ý tên là Marco Polo. Ông này làm quan dưới triều đại Mông - Nguyên của Hốt Tất Liệt. Năm 1298, sau một lần được cử đi làm sứ giả ở một số nước Đông Nam á, trong đó có Chăm Pa, ông đã ghi chép khá tỉ mỉ về người Chăm và đời sống của họ trong cuốn Le livre de Marco Polo (Cuốn sách của Marco Polo). Vào thế kỷ XIV, một số linh mục đi truyền giáo đã đến Chăm Pa. Linh mục Odoric de Pordennone có ghi chép về phong tục tập quán của người Chăm trong cuốn sách Những cuộc viễn du sang châu Á xuất bản tại Pari. Nhìn chung, những tư liệu về người Chăm và phong tục tập quán Chăm trong cổ sử là rất hiếm hoi.

Văn hóa Chăm thực sự được nghiên cứu rầm rộ từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với chủ yếu là những người Pháp như J. Crawford, A. Bastian, E. Aymonier, H. Parmentier, E.M. Durand, L. Finot, A. Cabaton, G.L. Maspéro v.v…

Để tiếp cận văn hóa Chăm, những người Pháp ở Việt Nam bắt đầu tìm hiểu ngôn ngữ, văn tự Chăm. Từ năm 1852, nhà nghiên cứu J. Crawford đã lần đầu tiên lưu ý tới người Chăm và công bố 81 từ vựng Chăm. Năm 1868, A. Bastian đã công bố hai trang từ vựng tiếng Chăm. Năm 1875, A. Morice đưa vào Revue de linguistique et de philologie tập từ vựng tiếng Chăm đầu tiên gồm 800 từ. Năm 1877, K.F. Holle cho in bảng chữ cái Chăm. Năm 1881, E. Aymonier cho công bố bài viết về văn tự và các phương ngữ Chăm và J. Moure ghi nhận về bảng chữ cái và một nguyên bản về ngôn ngữ Chăm ở Campuchia. Năm 1889, A. Bergaigne xuất bản công trình về lịch sử Chăm Pa qua các văn bản cổ. Năm 1906, W. Schmidt viết bài báo công bố việc xác định tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Austroasiatic (Nam á). E. M. Durand công bố 12 bài viết về người Chăm; E. Huber tập trung nghiên cứu về văn tự Chăm và công bố trong Tham cứu Đông Dương (Indochine studies). Và, đến năm 1906, cùng với E. Aymonier, A. Cabaton cho xuất bản cuốn Từ điển Pháp - Chăm (Aymonier E. et Cabaton A. (1906), Dictionnaire Cam - Français, Paris). Đây là công trình rất có giá trị trong việc nghiên cứu văn hóa Chăm về sau này.

Ngay từ những ngày đầu tiên, các nhà nghiên cứu người Pháp đã rất quan tâm đến các di tích Chăm Pa. Năm 1901, L. Finot xuất bản danh mục các kiến trúc Chăm Pa. Năm 1906, G. Coedes cho xuất bản danh mục các bia ký Chăm. L. Cadiere xuất bản các bài viết về các di tích Chăm ở hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình. Cùng với việc truy tìm các kho báu, H. Parmentier tiến hành khảo sát các di tích và tiến hành khai quật khảo cổ các đô thị cổ Chăm Pa và đến năm 1909, ông cho xuất bản hai tập cuốnL'Inventaire descriptif des monument Cam de L'Annam, là một công trình rất có giá trị về khảo cổ Chăm Pa, là tư liệu quý giá cho các nhà trùng tu, bảo tồn di tích Chăm sau này. H. Parmentier còn là một trong những người đầu tiên nghiên cứu bia kí Chăm Pa và sau đó là A. Barth và A. Bergaigue, L. Finot kế tục. Ngoài ra, H. Parmentier còn là người có công trong việc lập ra Bảo tàng điêu khắc Chăm ở Đà Nẵng. Ông cùng Nguyễn Văn Tố còn viết một số bài về tượng Chăm và về những "kho báu” Chăm Pa.

Những kết quả nghiên cứu về văn tự, khảo cổ đã làm hấp dẫn các nhà nghiên cứu người Pháp về lịch sử Chăm Pa. Năm 1927, R.C. Majumdar đã xuất bản cuốn sách đầu tiên về lịch sử Chăm Pa (Ancient Indian Colonies Internet the Far East, Champa). Dựa trên cơ sở các tư liệu của Trung Quốc và những kết quả nghiên cứu về Chăm Pa, năm 1928, G.L. Maspéro xuất bản cuốn sách về lịch sử vương quốc Chăm Pa: Vương quốc Champa (Le royaume du Champa).

Đến năm 1930, xuất hiện công trình của M. Ner về mẫu hệ Chăm (Au pays du droit maternel). Vào năm 1944, G. Coedes viết về lịch sử cổ Chăm Pa trong công trình về khung cảnh các nước Ấn Độ hóa khác ở Đông Dương và Đông Nam á.

Như vậy, đa phần những công trình nghiên cứu trong giai đoạn đầu chủ yếu đi vào những lĩnh vực ngôn ngữ, văn tự, lịch sử, khảo cổ, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến vấn đề nghiên cứu nghi lễ vòng đời của người Chăm.

Mặc dù mới chỉ là những nghiên cứu đầu tiên, nhưng các tác giả người Pháp đã có những công trình nghiên cứu nghiêm túc, có giá trị về mảng văn hóa phi vật thể, trong đó có tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của cộng đồng người Chăm đang sinh sống ở Việt Nam. Đó là các tác giả như E.M. Durand với các công trình nghiên cứu: Người Chăm Bàni (1903); Đền Po Rame ở Panrang (1903); Ghi chép về một lễ hỏa táng của người Chăm (1903); Ghi chép về người Chăm (1908); P. Mus với các công trình Tục thờ cúng Ấn Độ và những yếu tố bản địa ở Champa (1928); Tác giả J. Leuba với công trình: Người Chăm xưa và nay; A. Cabaton với Người Chăm (1901); M.E.Aymonier với Người Chàm và những tín ngưỡng của họ (1891); Tín ngưỡng và sự tuân giáo quy của người Chàm ở Vương quốc Campuchia (1891). Sau năm 1920, A.Sallet có một số bài báo về văn hóa dân gian Chăm. Một công trình đầy đặn và công phu, có nhiều giá trị khoa học, nhất là lịch sử Chăm Pa là cuốn Vương quốc Chăm Pa (Le royaume du Champa) của G.L. Maspéro, xuất bản năm 1928 tại Pari. Sách dày 278 trang với nhiều tư liệu phong phú. Tuy nhiên công trình này chủ yếu nói về lịch sử Chăm Pa, thông qua nghiên cứu các sử liệu của Trung Quốc. Những trang viết về phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng tôn giáo rất khiêm tốn và theo cách nhìn của người phương Tây, có nhiều điểm không chính xác. Ví dụ, về hôn lễ của người Chăm (trong chương 1, Xứ sở và dân cư), ông viết dẫn theo Tùy sử như sau: "Về sinh hoạt của nhân dân (người Chăm) và phong tục tập quán, người Trung Quốc cung cấp cho ta nhiều tài liệu. Họ tả tỉ mỉ những nghi lễ trong gia đình. Hôn nhân phải qua một người mối, thường là một Brahmane (Bàlamôn), người mối mang trang sức và một ít vàng, bạc, hai hũ rượu và mấy con cá đến nhà người con trai làm lễ cầu hôn… có một vị sư nữ đi kèm, người cho đi dẫn người con trai về, vì rằng, đàn ông là không quan trọng… người mối dẫn anh ta tới gần người con gái, hai tay cầm lấy tay họ để họ nắm tay nhau, mồm thì đọc một câu về hôn lễ…"(5).

 

Những miêu tả trên đây có những điểm phù hợp với phong tục còn đến hôm nay ở người Chăm Bàlamôn nhiều hơn ở những người Chăm theo các tôn giáo khác. Chỉ có điều, trong nghi lễ cưới xin của người Chăm Ahiêr (Bàlamôn) kiêng kỵ sự xuất hiện của các chức sắc Bàlamôn. Về những hạn chế của các công trình do các tác giả phương Tây nghiên cứu về phong tục tập quán, tín ngưỡng Chăm, chúng tôi đồng ý với các phê phán của Lý Kim Hoa trong bài viết "Vài nhận định về tín ngưỡng dân gian Chàm ở Thuận Hải”, đăng trong Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam, (tập II, quyển 2, Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh). Cũng về vấn đề này, Vương Hoàng Trù - một trong những nhà nghiên cứu dân tộc Chăm ở Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh (nay là Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) - đã có những nhận xét: "Các tác giả nước ngoài và chủ yếu là các học giả phương Tây, khi nghiên cứu về các tộc người ở phương Đông thì dưới con mắt của họ đây là những cư dân còn lạc hậu cần được khai hóa”(6).

Các công trình nghiên cứu của các tác giả phương Tây có những hạn chế nhất định. Nguyên nhân của những hạn chế đó chủ yếu là do quan niệm coi phương Tây là trung tâm, coi văn hóa các nước thuộc địa là thấp kém, chưa văn minh, cần khai hóa. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc coi những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng của các dân tộc ở Đông Nam á, trong đó có người Chăm là "mê tín dị đoan”, là "rất khó hiểu”.

Những công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm của những người Pháp hiện nay tập trung nhiều nhất ở trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO - école Franỗaise d’Extrême Orient) ở Pari. Đa số các công trình nói trên chưa xuất bản ở Việt Nam, chủ yếu là các bản dịch chép tay hoặc in Roneo hiện lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận, thư viện Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và của một số nhân sĩ trí thức Chăm, của các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm như TS. Thành Phần, TS. Ngô Văn Doanh, TS. Phú Văn Hẳn v.v… và những người quan tâm đến văn hóa Chăm. Bên cạnh một số hạn chế, có thể nói, các tác giả phương Tây đã để lại cho chúng ta những công trình rất có giá trị, nhất là những công trình nghiên cứu văn hóa vật thể như kiến trúc, điêu khắc, bia ký, là những tư liệu vô cùng quý giá trong việc bảo tồn, trùng tu di tích văn hóa phi vật thể (hiện nay, các chuyên gia trùng tu, tôn tạo các di tích Chăm ít nhiều đều phải dựa vào tư liệu nghiên cứu của người Pháp như các công trình khảo cổ, đo đạc, những bản vẽ kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc của các đền tháp Chăm). Những công trình nghiên cứu văn hóa phi vật thể đa phần được nghiên cứu theo phương pháp dân tộc chí, là những tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu so sánh phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm ở Việt Nam nói chung, của cộng đồng người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận nói riêng từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

 

 

 

II. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975

 

 

Sau năm 1945, do những diễn biến lịch sử, những tác giả nghiên cứu về văn hóa Đông Nam á nói chung và văn hóa Chăm nói riêng ngày càng ít. J.Boisselier có một số công trình nghiên cứu về điêu khắc kiến trúc liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo Chăm. Năm 1968, G. Moussay cho thành lập Trung tâm Văn hóa Chàm tại Phan Rang và cùng với sự giúp đỡ của ông Lâm Gia Tịnh, Thiên Sanh Cảnh, Trượng Văn Tốn và một số trí thức người Chăm đã cho xuất bản cuốn Từ điển Chàm - Việt - Pháp(Dictionnaire Căm - Vietnamien - Franỗais).

Sau chiến tranh thế giới thứ II, người nước ngoài ít có điều kiện nghiên cứu về văn hóa Chăm, chỉ có lác đác một số bài viết nhưContributions à l'études structures sociales Cam du Vietnam (1964) và cuốn sách Các nhóm sắc tộc ở Cộng hòa Việt Nam(Minority groups in the Republic of Vietnam) do quân đội Mỹ in năm 1966. Từ năm 1955 đến 1975, nổi lên các tác giả người Việt Nam nghiên cứu về người Chăm như Nghiêm Thẩm, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Bạt Tụy, Thái Văn Kiểm, Dohamide và Dorohiêm v.v… Nghiêm Thẩm là một trong những người đầu tiên nghiên cứu và tổng hợp các tôn giáo của người Chăm. Ông Dương Tấn Phát - một tri huyện ở huyện An Phước (Huyện Ninh Phước ngày nay, là huyện có số lượng người Chăm sinh sống đông nhất ở Ninh Thuận) - đã tập hợp từ phong tục tập quán, luật tục của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận để hình thành nên Bộ luật hôn nhân Chàm (1950). Năm 1967, Nguyễn Khắc Ngữ xuất bản tác phẩm Mẫu hệ Chàm và một số bài báo đăng trên các tập san Văn hóa á châuVăn hóa nguyệt san như Ngải Chàm (1959); Hỏa táng, Một đám cưới của người Chàm theo đạo Bàlamôn (1958), Văn hóa Chiêm Thành (1959), Sơ khảo văn hóa Chiêm Thành, Pô mê - dã sử Chàm, Tại sao người Chàm Bàni kiêng thịt heo và thịt nhông? (Bố Thuận và Nguyễn Khắc Ngữ - Văn hóa nguyệt san, tháng 8 năm 1960).

Từ năm 1968 đến năm 1974, Nguyễn Văn Luận là một trong những người đi đầu tập trung nghiên cứu về các nghi thức và tín ngưỡng người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận - Bình Thuận và lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm Hồi Giáo ở Nam Bộ. Ông cho đăng những bài báo như: Góp phần nghiên cứu về tín ngưỡng của người Chàm (Văn hóa nguyệt san, 1968); Vua Pôrômê trong lịch sử và tín ngưỡng của người Chàm (Việt Nam khảo cổ tập san, 1971); Những đặc điểm trong việc hôn nhân của người Chàm Hồi giáo (Văn hóa tập san, 1972); Và đến năm 1974, Nguyễn Khắc Ngữ cho xuất bản tác phẩm Người Chăm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam. Trong giai đoạn này, Dohamide cũng có những bài viết về người Chăm như Vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay (tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, 1963); Những hiện tượng huyền bí trong tập tục Chàm (tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, 1974). Năm 1965, trên cơ sở tập hợp các tư liệu của nhiều nguồn cổ sử viết về Chăm Pa, hai anh em Dohamide và Dorohiêm (người Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc, An Giang) cho xuất bản cuốn Dân tộc Chàm lược sử (Sài Gòn, 1965). Năm 1974, Phan Lạc Tuyên đã bảo vệ luận án tiến sĩ về văn hóa Chăm Việt Nam và Chăm Pa, sự phát triển lịch sử của mối tương quan giữa hai nền văn minh tại Ba Lan.

Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết giới thiệu khái quát văn hóa của các tác giả người Chăm như Thiên Sanh Cảnh, Dorohiem, Bố Thuận với một số bài viết đăng trên các tập san: Văn hóa nguyệt san, tạp chí Văn hóa á châu; tạp chí Việt Nam khảo cổ tập san xuất bản ở Sài Gòn trước năm 1975 như Một đám cưới của người Chàm theo đạo Bàlamôn (Bố Thuận - Vũ Lang, Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn, 1958); Tang lễ và hôn nhân Chàm (Bố Thuận - Vũ Lang, tạp chí Bách Khoa số 138, Sài Gòn, 1962); Thượng cổ sử Chiêm Thành (Bố Thuận - Nguyễn Khắc Ngữ, tạp chí Việt Nam khảo cổ tập san, Sài Gòn, 1962). Tác giả Nguyễn Đình Tư cho xuất bản bộ chuyên khảo Giang sơn Việt Nam có giá trị nghiên cứu về địa văn hóa vùng đồng bào Chăm đang sinh sống: Đây non nước Phú Yên (1966); Đây non nước Khánh Hòa (1969); Non nước Ninh Thuận (1974), trong đó có một số trang viết về người Chăm.

Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về người Chăm và văn hóa Chăm, trong một chừng mực nhất định, đã có những đóng góp quý báu vào kho tàng tư liệu khoa học, nhất là những công trình, bài viết của những tác giả người Chăm. Hạn chế của những công trình này là chưa có những chuyên luận sâu về một lĩnh vực. Một số công trình, bài báo còn mang tính miêu tả, khái quát, chưa có sự so sánh, đúc kết, chưa bóc tách, giải mã các hiện tượng văn hóa theo lịch đại và đồng đại trong không gian văn hóa Việt Nam và văn hóa Đông Nam á.

 

 

 

 

III. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay

 

 

Từ sau năm 1975 đến nay, với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là nghiên cứu người Chăm, văn hóa Chăm là để tìm các biện pháp bảo tồn và phát huy văn hóa Chăm, tìm ra các biện pháp để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội vùng đồng bào Chăm. Từ đây, việc nghiên cứu văn hóa Chăm được các nhà khoa học Việt Nam chú ý đến nhiều hơn.

Giai đoạn từ 1975 đến 1986, tuy thời gian chưa nhiều, kinh phí hạn hẹp, điều kiện nghiên cứu rất khó khăn, lực lượng các nhà khoa học còn thiếu lại chưa được đào tạo bài bản và có tính chuyên sâu, nhưng với việc nghiên cứu tổng hợp các lĩnh vực bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp. Những tập sách như: Thông báo nghệ thuật số 20, (Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa, 1977), Những vấn đề dân tộc học miền Nam Việt Nam, (Ban Dân tộc - Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, 1978) là sự tiếp xúc đầu tiên của các nhà khoa học xã hội Việt Nam với văn hóa Chăm, là những công trình khảo sát dân tộc học có giá trị với sức mạnh tổng hợp của nhiều chuyên ngành khác nhau mà khi nghiên cứu về văn hóa Chăm không thể bỏ qua. Đó là những bài viết như: Nông nghiệp cổ truyền của đồng bào Chăm Thuận Hải của Phan Lạc Tuyên; Vài nhận định về tín ngưỡng dân gian Chàm ở Thuận Hải của Lý Kim Hoa; Đặc điểm gia đình, thân tộc và xã hội của đồng bào Chàm của Mahmod; Bước đầu sưu tầm về múa dân tộc Chăm của Hoàng Túc; Nguồn gốc Ấn Độ và sự biến dạng của tục thờ Xiva ở người Chăm của Hoàng Sĩ Quý; Đám ma người Chăm Bàlamôn ở Thuận Hải của Sử Văn Ngọc; Sự gắn bó Việt - Chăm qua một số truyện dân gian; (tạp chí Văn học số 5/1976); Người Chăm và điêu khắc Chăm của Cao Xuân Phổ (1988). Năm 1978, các tác giả Phạm Xuân Thông, Thiên Sanh Cảnh (Ninh Thuận) cho xuất bản bộ sưu tập Truyện cổ dân gian Chăm, ông Bố Xuân Hổ (Bình Thuận) với bài viết Tín ngưỡng tượng kút ở vùng Chăm Thuận HảiTruyền thuyết về các tháp Chăm trên miền đất cực nam Trung Bộ (1995) v.v… Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thành lập bộ môn nghiên cứu dân tộc Chăm trong Ban Dân tộc và đã ấn hành cuốn chuyên khảo về dân tộc Chăm, cuốn thư mục về dân tộc Chăm của Lý Kim Hoa - Phan Văn Quỳnh, mặt khác tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhiều lĩnh vực và cho ra đời những bài viết có giá trị tự liệu tốt như: Góp phần tìm hiểu người Kinh - cựu ở vùng Chàm Thuận Hải của Phan Lạc Tuyên (Dân tộc học, 1977); Bàlamôn giáo ở Thuận Hải xưa và naycủa Lý Kim Hoa (Dân tộc học, 3/1979); Tín ngưỡng tượng kút ở người Chăm Thuận Hải (Dân tộc học, số 4/1977); Tìm hiểu quan hệ giao lưu văn hóa Việt và Chàm của Lê Văn Hảo (Dân tộc học, số 1/1979); Phong tục cưới của dân tộc Chàm của Lê Ngọc Canh (Dân tộc học, số 4/1991); Hệ thống cấu trúc làng Chăm ở Việt Nam của Mạc Đường, (Dân tộc học, số 1/1993), có những công trình phát hiện mới về kiến trúc điêu khắc Chăm như Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm của Trần Kỳ Phương (Nxb. Đà Nẵng, 1988).

Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức khảo sát, điền dã vùng đồng bào Chăm và có nhiều tác phẩm quý như Người Chăm ở Thuận Hải; nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp cho xuất bản công trình rất có giá trị Văn hóa Chăm. Về lĩnh vực nghệ thuật, ra đời các công trình như Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm (1995) của GS. TS. NSND. Lê Ngọc Canh, và Ths. Tô Đông Hải; Bước đầu tìm hiểu, phục hồi múa cung đình Chăm của NSND. Đặng Hùng (Trung tâm Văn hóa dân tộc thành phố Hồ Chí Minh, 1998). Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hải Liên đã cho xuất bản công trình Vai trò âm nhạc trong lễ hội dân gian Chăm Ninh Thuận (Viện Âm nhạc, 1999).

Năm 1992, Viện Đào tạo mở rộng thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo về kinh tế - văn hóa Chăm và in thành tập kỷ yếu, trong đó có một số bài viết có giá trị của các tác giả như GS. Nguyễn Quốc Lộc, GS. Mạc Đường, GS. Phan Xuân Biên, GS. Phan An, TS. Phan Lạc Tuyên, TS. Nguyễn Tuấn Triết và các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm như Phú Văn Hẳn, Bá Trung Phụ, Inrasara v.v… Tác giả người Chăm Inrasara đã xuất bản một loạt các công trình về nghiên cứu văn học Chăm như: Văn học Chăm - Khái luận - văn tuyển, (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994); Văn học dân gian Chăm, tục ngữ - thành ngữ - câu đố, (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1995); Văn học Chăm II, trường ca, (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996); Các vấn đề văn hóa xã hội Chăm, (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999), Ngoài ra, Inrasara còn là chủ bút tập san Tagalau, nơi tập hợp của các cây bút văn học Chăm. Tác giả Ngô Văn Doanh có tác phẩm Văn hóa Chăm Pa, (Nxb. Văn hóa thông tin, 1994), Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm, (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1998), Văn hóa cổ Chămpa (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2002) và có nhiều bài viết về văn hóa Chăm đăng trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Các tác giả Lưu Trần Tiêu - Ngô Văn Doanh - Nguyễn Quốc Hùng xuất bản cuốn Giữ gìn những kiệt tác kiến trúc trong nền văn hóa Chăm, (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2000).

Giai đoạn này xuất hiện một số gương mặt mới trong nghiên cứu văn hóa Chăm như Trần Kỳ Phương với công trình Mỹ Sơn trong lịch sử nghệ thuật Chăm (Nxb. Đà Nẵng, 1988); tác giả Văn Món ở Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận xuất bản cuốn Lễ hội của người Chăm, (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003); Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bầu Trúc (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2001) và một số bài viết như Luật tục người Chăm và luật pháp của Nhà nước trong vấn đề hôn nhân gia đình hiện nay (tạp chí Văn hóa dân gian, số 1/2000); Hệ thống lễ hội Rija của người Chăm Ninh Thuận (2002). Tác giả Phan Quốc Anh với những bài viết như Vài suy nghĩ về việc nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận, (tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á số 2 (35), 1999); Lễ hội Ka tê của ngưười Chăm Ninh Thuận, (tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 4, 1999); Văn hóa người Chăm Ninh Thuận trong việc nghiên cứu văn hóa miền Trung - bài tham gia Hội thảo khoa học Văn hóa nghệ thuật miền Trung, vấn đề định hưướng và nghiên cứu tại Quảng Bình, tháng 2 năm 2000, đăng trên Thông báo khoa học của Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, số 2/2001; Đôi nét ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ đối với văn hóa Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, (tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9 (207), 2001); Khảo sát lễ "Chiêu hồn nhập cốt" của ngưười Chăm Bàlamôn, (tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 7 (217), 2002); Lễ hỏa táng của ngưười Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, (tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3 (54), 2002); Những quan niệm trong tang ma của người Chăm Bàlamôn, (tạp chí Văn hóa dân gian, số 6 (84), 2002); Về "tết" của ngưười Chăm,(tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 1 (223), 2003); Lễ hỏa táng của ngưười Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, kịch bản phim khoa học trong chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể của Bộ Văn hóa - Thông tin năm 2002; Nghi lễ cưưới truyền thống của ngưười Chăm Bàlamôn, (tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 6, 7 (228, 229), 2003). Tôn giáo của người Chăm ở Ninh Thuận, (tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 8, 9 - 2004); Lễ nhập kút của người Chăm Bàlamôn, (tạp chí Văn hóa dân gian số 4 - 2004); Hệ thống chủ lễ của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, (tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á số 3 - 2004); Nghệ thuật dân gian Chăm, một di sản văn hóa phi vật thể quý báu cần bảo tồn và phát huy, (tạp chí Di sản văn hóa, số 8 - 2004) v.v…

Những năm gần đây có một số luận án nghiên cứu về văn hóa Chăm như Tôn giáo Chăm ở Việt Nam của Phan Văn Dốp (1992). Điểm đáng chú ý là trong luận án này, Phan Văn Dốp không gọi người Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo là Chăm Bàlamôn mà gọi là người Chăm theo Ấn Độ giáo. Ngoài ra có các luận án Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam của Bá Trung Phụ (đã xuất bản năm 2001); ảnh hưởng của tôn giáo đối với tín ngưỡng của người Chăm ở Việt Nam của Nguyễn Đức Toàn (2003),Tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận của Vương Hoàng Trù (2003). Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận của Phan Quốc Anh (2004); Luận án So sánh tiếng Chăm (Việt Nam) và tiếng Melayu Malaysia về mặt ngữ âm và chữ viết (2003) của Phú Văn Hẳn. Đặc biệt, một luận án của một học giả nước ngoài đã được xuất bản là "Xứ Đàng Trong” của Li Tana (Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1999). Đây là một công trình có nhiều vấn đề liên quan đến người Chăm. Chắc chắn trong thời gian tới sẽ còn nhiều công trình, luận văn, luận án lấy văn hóa Chăm làm đối tượng nghiên cứu.

Từ năm 2000 đến nay, trong Chương trình quốc gia có mục tiêu "Sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể”, Sở Văn hóa - Thông tin Ninh Thuận phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật (nay là Viện Văn hóa - Thông tin) đã thực hiện 4 bộ phim tư liệu khoa học bảo lưu trên đĩa DVD: Lễ hội Ka têLàng nghề gốm cổ truyền Bàu TrúcLễ hỏa táng của người ChămLễ hội Rija Nưgar của người Chăm đưa vào ngân hàng dữ liệu văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam.

Ngoài ra, còn rất nhiều khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn tốt nghiệp cao học về đề tài văn hóa Chăm như Bước đầu tìm hiểu về nhà cửa của đồng bào Chăm (Cam Pini) vùng Phan Rang - Thuận Hải (Thành Phần - luận văn tốt nghiệp Đại học Tổng hợp - Hà Nội, 1979). Một số bài viết như Yang tikuh, núi đá trắng và lễ tế trâu trắng: từ truyền thống Ấn Độ xưa đến tín ngưỡng dân gian hiện nay của người Chăm, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1, 2001...

Như vậy, những công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm từ trước tới nay đa số là những công trình nghiên cứu ở phạm vi rộngvề người Chăm và văn hóa Chăm, về lịch sử, về văn hóa vật chất của vương quốc Chăm Pa xưa. Có những công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm nói chung, trong đó có đề cập đến một số lễ hội như lễ Katê, Chaburl, hệ thống lễ Ri ka (Rija) v.v… Cũng đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến một số nghi lễ vòng đời người Chăm. Những công trình giai đoạn đầu của các tác giả người Pháp ít đề cập đến các nghi lễ vòng đời mà chỉ rải rác dành một số lượng trang viết về phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo chung của người Chăm như đã nêu ở phần trên. Liên quan đến nghi lễ vòng đời, đáng chú ý là các tác giả người Việt và người Chăm như: Một đám cưới Chàm theo đạo Bàlamôn(7)Hỏa táng(8) của Nguyễn Khắc Ngữ; Đám ma người Chăm Bàlamôn ở Thuận Hải của Sử Văn Ngọc đăng trong Những vấn đề dân tộc học ở miền Nam Việt Nam (tập 2 quyển II, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, 1978) v.v… Những bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở sự miêu tả khái quát, chưa đi sâu nghiên cứu tỉ mỉ, chưa có sự so sánh, phân tích và chưa đề cập tới quan niệm "tái sinh” trong tang ma của người Chăm Bàlamôn, chưa có những công trình phân tích sâu, tìm nguyên nhân và vị trí quan trọng của tín ngưỡng nhập kút trong đời sống xã hội Chăm.

 

Trước năm 1975, viết về các lễ thức vòng đời của người Chăm Hồi giáo, đáng kể nhất là công trình Người Chàm Hồi giáo ở miền Tây Nam phần Việt Nam của Nguyễn Văn Luận. Trong cuốn sách của mình, tác giả dành 70 trang mô tả một cách vắn tắt những tập tục gia đình của người Chăm Hồi giáo, trong đó có các lễ thức sinh đẻ, hôn nhân, tang ma.

Năm 1991, các tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp đã cho xuất bản công trình Văn hóa Chăm. Đây là một công trình rất có giá trị, tập hợp được nhiều tư liệu có được từ trước đến nay về văn hóa Chăm. ở phần viết về các phong tục tập quán, các tác giả cũng đã trình bày một số lễ thức liên quan đến vòng đời của người Chăm. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát, để phục vụ cho công trình có phạm vi rộng là "văn hóa Chăm”, chưa phải là công trình chuyên sâu về các nghi lễ vòng đời người.

Năm 1996, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Ninh Thuận thực hiện đề tài khoa học Lễ hội Chăm. Năm 2003, tác giả Văn Món đã tập hợp tư liệu và cho xuất bản công trình Lễ hội của người Chăm. Đây là một công trình dày dặn, công phu, tác giả bước đầu đã đưa ra được những nhận định riêng về các giá trị văn hóa của cộng đồng người Chăm Ahiêr và awal ở Ninh Thuận. Nhưng công trình này cũng chủ yếu đi vào những lễ hội lớn mang tính cộng đồng, trong đó phần nhiều là các nghi lễ nông nghiệp và các nghi lễ dòng tộc của người Chăm. Công trình Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam(9) của tác giả Bá Trung Phụ cũng đã đề cập đến một số lễ thức vòng đời của người Chăm nhưng chủ yếu dưới góc nhìn "hôn nhân và gia đình”.

Gần đây, năm 2003, các tác giả Nguyễn Mạnh Cường - Nguyễn Minh Ngọc đã xuất bản cuốn sách: Người Chăm - những nghiên cứu bước đầu(10). Đây là công trình khoa học công phu, dày dặn viết về người Chăm Hồi giáo ở Việt Nam. Trong công trình này, các tác giả có dành 42 trang để mô tả và phân tích các lễ hội vòng đời của người Chăm Bàni và 35 trang cho các nghi lễ vòng đời của người Chăm Islam ở Ninh Thuận. Có thể nói, trong công trình Người Chăm - những nghiên cứu bước đầu, các nghi thức vòng đời của người Chăm Bàni và người Chăm Islam được giới thiệu một cách khái quát và có hệ thống, nhưng chưa đề cập đến nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn.

*

*      *

Tóm lại, những công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm từ trước tới nay đa phần là tập trung vào nghiên cứu lịch sử và những di tích đền tháp, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của vương quốc Chăm Pa xưa. Những công trình nghiên cứu về lễ hội, nhất là các nghi lễ vòng đời người còn hạn chế, đa số các công trình nghiên cứu theo phương pháp dân tộc chí và dân tộc học. Chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu các nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn, nhất là nghiên cứu theo phương pháp văn hóa học. Vì vậy, ít nhiều chưa có sự so sánh, phân tích, bóc tách các lớp văn hóa, phân tích những yếu tố văn hóa nội sinh và văn hóa ngoại sinh, những truyền thống bản địa và truyền thống ảnh hưởng từ các tôn giáo mà người Chăm tiếp nhận trong suốt chiều dài lịch sử, cũng chưa có công trình nào đi sâu phân tích về sự bản địa hóa Bàlamôn giáo để trở thành một kiểu tôn giáo dân tộc của người Chăm.

Để nghiên cứu nghi lễ vòng đời, chúng tôi có tham khảo một số công trình nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của các nhà khoa học đi trước. Đáng chú ý là công trình Các nghi thức chuyển tiếp (Riter de passage) của Gennep. A.V. do Viện Nghiên cứu Văn hóa xuất bản năm 2004. Các nhà khoa học đánh giá công trình nói trên của Gennep. A.V. là một công trình mẫu mực, có giá trị cao về nghiên cứu các nghi lễ chuyển tiếp các giai đoạn trong cuộc đời một con người mà khi xem xét nghi lễ vòng đời của mỗi dân tộc cần phải tham khảo. Các công trình nghiên cứu về nghi lễ vòng đời của các dân tộc ở Việt Nam chưa nhiều, nếu có cũng mới chỉ tập trung ở người Việt. Chúng tôi có tham khảo một số công trình như Nghi lễ vòng đời người của nhóm tác giả Lê Trung Vũ, Nguyễn Hồng Dương, Lê Hồng Lý, Lưu Kiếm Khanh(11). Đây là công trình đầu tiên xâu chuỗi các nghi lễ từ khi sinh ra cho đến khi chết của cuộc đời người Việt. Công trình này vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa về bảo tồn văn hóa dân tộc. Bởi vì, các nghi lễ vòng đời của người Việt cũng đang biến đổi nhanh chóng, các nghi lễ vòng đời của người Việt ở mỗi vùng miền có khác nhau, thậm chí khác xa nhau. Bên cạnh đó, những nghi lễ từ trước khi thụ thai, thời kỳ mang thai, sinh đẻ, cưới xin, tang ma của người Việt (nhất là ở đô thị) bây giờ đã "hiện đại hóa” lắm rồi. Thế hệ trẻ bây giờ không thích học những lễ nghi rườm rà, phức tạp (mặc dù trong tâm vẫn còn niềm tin vào cái thiêng). Nếu những nghi lễ vòng đời người của mỗi dân tộc bị mất đi, chính dân tộc đó đang tự đánh mất bản sắc văn hóa của mình.

Tác giả Toan ánh có rất nhiều tác phẩm viết về phong tục tập quán có liên quan đến nghi lễ vòng đời người được tái bản nhiều lần như Tìm hiểu phong tục Việt Namnếp cũlễ tếthội hè (Nxb. Thanh niên, tái bản năm 1992); Nếp cũ - tín ngưỡng Việt Nam(Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, tái bản năm 2000); Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam (Nxb. Văn nghệ, tái bản năm 2001). Đây là những công trình có giá trị, được tái bản nhiều lần chứng tỏ nhu cầu tìm hiểu và quay lại "nếp cũ, lễ tết, hội hè” cũng như các phong tục tập quán của người Việt là rất lớn. Những công trình này cần được tập hợp và có sự so sánh giữa các vùng miền và sự biến đổi giữa các giai đoạn văn hóa, đồng thời có sự hướng dẫn cụ thể hơn các lễ thức, lễ tục, lễ vật, lời văn cầu khấn để cho các thế hệ trước "truyền dạy” cho các thế hệ sau và thế hệ sau "học lại” các thế hệ trước, góp phần gìn giữ phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngoài ra có những cuốn sách đáng kể như Lệ tục vòng đời của tác giả Phạm Minh Thảo (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2000). Đây là cuốn sách giới thiệu, tập hợp những nghi lễ vòng đời người tản mạn của các dân tộc ở Việt Nam, chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu. Năm 2002, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Văn Bổn xuất bản cuốn Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khơ Me đồng bằng sông Cửu Long (Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội).

Ngoài ra, những công trình nghiên cứu về các nghi lễ vòng đời thường được viết lẻ tẻ về một nghi lễ nào đó trong hệ thống nghi lễ diễn ra suốt trong cuộc đời một con người như: lễ sinh đẻ, lễ cưới, lễ mừng thọ, nghi lễ tang ma của một dân tộc, một vùng nào đó. Theo chúng tôi, cần có sự xâu chuỗi các nghi lễ vòng đời người của từng dân tộc lại, bởi vì giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và có sự thống nhất về quan niệm, tín ngưỡng, tôn giáo của một dân tộc, một tôn giáo hay của một vùng miền văn hóa.

*

*       *

Nhìn lại vấn đề nghiên cứu, có thể nói cho đến nay nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn chưa là đối tượng của một chuyên luận khoa học nào cả, đang còn là một điểm trống trong lịch sử nghiên cứu văn hóa người Chăm ở Việt Nam. Do vậy, chúng tôi quyết định chọn vấn đề này để nghiên cứu một cách chuyên sâu.

 Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có chọn lọc, kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, đồng thời tăng cường sưu tầm tư liệu điền dã và đưa ra những tư liệu mới, những phát hiện mới trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận.

 

 

 

------------------------

(1) Chămpa, tổng mục lục các công trình nghiên cứu, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại miền Trung - Huế, 2002.

(2) Dẫn theo Dohamide, Dân tộc Chàm lược sử, Sài Gòn xuất bản, 1965, tr. 23.

(3) Cựu Đường thư, quyển 197, liệt truyện 147, tờ 1.

(4) Có thể xem thêm Lý Kim Hoa, "Vài nhận định về tín ngưỡng dân gian Chàm ở Thuận Hải”, trong Những vấn đề dân tộc ở miền Nam Việt Nam, tập II, quyển 2. Viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, tr. 62-102.

(5) Maspéro. G. L. (1928), Vương quốc Chămpa (Le royaume du Champa), Pari, bản dịch của Đào Từ Khải, tài liệu đánh máy, tr. 26.

(6) Vương Hoàng Trù, luận án tiến sĩ "Tín ngưỡng dân gian của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận", tr. 18, 2003.

(7) Nguyễn Khắc Ngữ, (1958), Văn hóa nguyệt san, số 31, Sài Gòn.

(8) Nguyễn Khắc Ngữ, (1962), Văn hóa nguyệt san, Sài Gòn.

(9) Bá Trung Phụ (2001), Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

(10) Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Minh Ngọc (2003), Người Chăm (Những nghiên cứu bước đầu), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

(11) Nxb.Văn hóa dân tộc, H, 1999.


Chủ đề: Văn hóa - Phong tục | Đăng bởi: hoangtu_bongdem2912_86 (15/08/2011)
Lượt xem: 792 | Đánh giá: 0.0/0
Tổng số ý kiến: 0
Chỉ thành viên mới có thể thêm các ý kiến.
[ Đăng ký | Đăng nhập ]
 
Trang chủ | Lý lịch! | Ghi danh | Đăng xuất | Đăng nhập 

Website được phát triển bởi các thành viên lớp 08cvhh - Khoa Ngữ Văn - Trường đại học Sư Phạm Đà Nẵng

== Website bắt đầu hoạt động từ ngày 01 tháng 5 năm 2011==