Thiên thứ năm. Cổ tích thế sự - II (Không có bản văn nhất định)
3. Vấn đề trật tự xã hội Xã hội ta ngày xưa từ bộ lạc đã chuyển dần sang chế độ phong kiến: trên có vua quan, duới có lý huơng, chức sắc nông thôn.
a) Vua quan .
Dân gian đã hư cấu, sáng tạo ra một nhân vật xuất chúng, Trạng
Quỳnh, để đứng ra tranh đấu cho công lý xã hội, chống lại uy quyền của
vua chúa quan lại. Suốt thời gian từ hạ bán thế kỉ thứ XIX đến tiền
bán thế kỉ thứ XX, ở khắp nước ta từ thành thị đến thôn quê, những câu
chuyện nghịch ngợm, ranh mãnh của Trạng Quỳnh đã được mọi người ham
thích, kể đi kể lại không bao giờ chán. Như thế là vì những hành dộng
của Trạng Quỳnh đã phù hợp với cảm nghĩ của mọi người, và đi đúng với
khát vọng của toàn dân.
Truyện Dê đực có chửa
" Dưới triều nhà Lê trung hưng, đời Chúa Trịnh Cương, nước sông Mã,
tại khu vực Hàm Rồng, bỗng tự nhiên đỏ như máu trong mười ngày. " Quần thần có người bàn rằng: Theo câu sấm của Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm: " Bao giờ nước đỏ Hàm Rồng, " Là điềm báo trước Trạng Ngông ra đời, thì
đó là điềm trời sẽ giúp cho quốc gia có nhân tài để giữ vững bờ cõi,
Chúa nên tuần du vùng Hàm Rồng, biết đâu sẽ gặp được. Rồi tự nhiên, từ
phủ Chúa có lệnh truyền ra mỗi địa phương phả dâng lên Chúa một con dê
đực có chửa, nếu không sẽ bị tử tội. " Chúa Trịnh Cương cho là phải.
" Khi Chúa tuần du vào Nghệ Tĩnh, đến địa đầu huyện Hoằng Hóa ngựa
bỗng dừng lại và ngửa cổ hí vang. Đồng thời cũng nghe có tiếng khóc
thảm thiết. Chúa ra lệnh lục soát, bắt được kẻ la khóc ấy là một đứa bé
mặt mũi khôi ngô. Hỏi vì sao khóc, đứa bé kính cẩn thưa: - Mẹ con qua đời từ lâu. Cha con không đẻ em cho con bồng ẵm, buồn vì cảnh lẻ loi, nên con khóc. " Chúa nghe nói, cười bảo đứa bé: - Cha là đàn ông làm sao mà sinh đẻ được? - Thưa Chúa Thượng, dê đực mà có chửa thì sao đàn ông lại không đẻ con được? - Đâu, dê đực có chửa ở đâu? - Dạ, nếu không có, sao lệnh bề trên lại xử tử hình trăm họ?
" Quan Thượng Thư bộ Lễ liền đến thưa với Chúa rằng đứa bé ấy có thể
là quan Trạng mai sau. Hóa ra lệnh buộc các địa phương phải dâng dê đực
có chửa là một mưu mẹo của vị quan nầy đưa ra để cho người hiền tài vì
muốn bênh vực nỗi oan khiên của dân gian mà phải xuất đầu lộ diện. Tất
nhiên lệnh ấy được bãi bỏ ngay. Từ đó dân gian gọi đứa bé là Trạng
(a)và vì nó tên là Quỳnh, nên gọi là Trạng Quỳnh." (22)
Chú giải
- (a)- Trạng: do chữ "trạng nguyên" nói tắt. Trạng nguyên là người đỗ
đầu ở kỳ thi đình (thi trước mặt vua) thời xưa. Từ "trạng" còn dùng để
chỉ người giỏi về một môn gì, ví dụ: Trạng rượu, trạng cờ... Có khi
"trạng" dùng trong nghĩa xấu, chỉ người khoe khoang, phách lối, ví dụ:
"nói trạng".
Từ đó Quỳnh được Chúa trọng đãi. Thời bấy giờ có
bọn quan thái giám hầu cận trong phủ Chúa, bên trong nịnh bợ kẻ trên,
mặt ngoài hống hách với kẻ dưới, buôn quan bán tước, đâm thọc, sinh sự
để ăn của đút lót, nhũng nhiễu dân lành. Trạng Quỳnh tìm mọi dịp để
châm biếm, xỉ vả bọn hoạn quan nầy cho bỏ ghét.
Trạng Quỳnh chọi gà với quan Thái Giám
" Quan Thái Giám (a) cao cấp nhất trong phủ Chúa Trịnh có một con gà
chọi rất hay, đấu trận nào thắng trận ấy, khắp nơi ai cũng biết tiếng.
" Một hôm Quỳnh bắt một con gà chọi đem thiến đi, rồi cho rao lên là
mình cũng có một con gà chọi rất hay, hay hơn cả con gà của quan Thái
Giám. Quan Thái Giám tỏ ý muốn đem gà mình ra chọi với gà của Quỳnh.
Quỳnh khiêm tốn trả lời: - Dạ thưa tôi không dám. Gà của tôi kém
lắm, dù chỉ một hiệp thôi cũng không thể đương đầu nổi với gà của quan
lớn. Thế nào cũng bị thua. " Trạng Quỳnh càng thoái thác, quan Thái
Giám càng nài ép, vì mong có dịp đi phô trương là mình đã oanh liệt
thắng được Quỳnh. " Cuối cùng Quỳnh tỏ vẻ miễn cưỡng nhận lời.
Quan Thái Giám liền hẹn ngày và sai lính đi mời các quan văn võ cùng
thân bằng quyến thuộc đến đông đủ để chứng kiến. " Hôm giao đấu,
quan Thái Giám huênh hoang khoe trương thành tích gà chọi của mình, còn
Quỳnh ôm gà, yên lặng, tỏ vẻ lo âu, khiến quan Thái Giám càng tự đắc.
" Hai con gà chọi vừa xáp nhau, đá qua đá lại chưa hết hiệp đầu, gà
của Quỳnh đã bị gà của quan Thái Giám đá rách mồng, gãy cánh, nằm dẫy
xuống chết. " Quan Thái Giám vênh mặt nhìn cử tọa, ra vẻ đắc ý
lắm. Tất cả đều nhiệt liệt hoan hô con gà nòi của quan lớn đã chiến
thắng vẻ vang. " Quỳnh chạy lại ôm xác gà, rồi rống lên thảm thiết:
- Gà ơi là gà ! Thân phận mầy là thiến, sao không biết nhục, còn đua
đòi, còn háo danh đến phải chết tức chết tửi như thế nầy? Đã bị thiến,
còn lộn xộn, còn vênh vanh nỗi gì? Ngu ơi là ngu! " Quan khách cười ồ, quan Thái Giám đứng sững sờ, không biết nói năng thế nào, rồi lặng lẽ ra về không kịp chào ai cả." (23)
Chú
giải - (a)- Thái Giám (còn gọi là hoạn quan). Ngày xưa trong cung có
nhiều tần phi và cung nữ, đàn ông, con trai nhất thiết không được vào.
Để có người phục dịch các tần phi, vua chúa tuyển những người "ái nam,
ái nữ" hoặc đã tự ý thiến hay tự hoạn, tức là tự ý cắt bỏ bộ phận sinh
dục của mình. Những người ấy được chức Thái Giám.
Truyện Trạng Quỳnh trộm mèo của Chúa
" Chúa có nuôi một con mèo tam thể (a), tuy đẹp thật nhưng cũng không
đáng để chúa tưng tiu, phô trương quá mức. Mỗi khi ngồi bàn quốc sự với
các quan đại thần, Chúa đem mèo theo, để ngay trên bàn, xem chẳng còn
thế thống nào cho triều đình cả. Ai cũng thấy chướng mắt mà không ai
dám nói. " Một hôm, nhân một buổi chầu, Trạng Quỳnh lén ôm mèo của
Chúa bỏ vào tay áo rộng (b) đem về nhà. Biết mèo của Chúa thường được
ăn sang,Trạng Quỳnh lại cho mèo tập ăn cơm hẩm. Quỳnh để một bát cơm
đầy cá thịt bên cạnh bát cơm hẩm, hễ mèo mon men lại gần bát cơm có
thịt cá thì Quỳnh đánh đập túi bụi. Sau mèo quen đi, thấy bát cơm có cá
thịt là không dám đến ăn. " Có người thưa với Chúa là Quỳnh đã bắt trộm mèo. Chúa cho lính bắt Quỳnh và mèo đến, nói: - Đúng là mèo của ta. Phải thú thật. Ta chém đầu bây giờ. " Quỳnh ra vẻ run sợ, tâu:
- Tâu Chúa Thượng, có thể mèo của Chúa Thượng và mèo của hạ thần giống
nhau. Nhưng nhìn kỹ, hãy còn có điểm khác nhau... Chúa giàu sang, mèo
của Chúa quen ăn cá thịt. Còn kẻ hạ thần nghèo khó, mèo của kẻ hạ thần
chỉ quen ăn cơm hẩm mà thôi. Xin Chúa công minh soi xét cho kẻ hạ thần
được nhờ. " Chúa liền sai mang hai bát cơm đặt trước mặt con mèo,
một bát đầy cá thịt, một bát chỉ có cơm hẩm. Chúa ngạc nhiên đến sửng
sốt khi thấy con mèo nhất định ăn cơm hẩm mà thôi. Quỳnh làm bộ đưa bát
cơm có cá thịt cho mèo ngửi, nhưng mèo trông thấy Quỳnh, nhớ lại các
trận đòn, hoảng hốt thụt lùi lại, kêu "ngao ngao" ầm lên. - Tâu
Chúa Thượng, sự việc rõ ràng, xin Chúa Thượng khoan hồng cho kẻ hạ thần
đem mèo về... Báo hại đứa con út kẻ hạ thần hễ mất mèo là cuống cuồng
lên, đòi chém hết thiên hạ! " Chúa biết Quỳnh nói móc, nhưng đành để Quỳnh ôm mèo về. "(23)
Chú
giải - (a) Mèo tam thể là mèo lông có ba màu: toàn bộ lông màu trắng,
có vá màu đen và màu vàng. Ngày xưa người ta tin rằng nhà có nuôi mèo
tam thể được nhiều may mắn. (b)- Áo rộng là áo ngày xưa may rất rộng,
màu xanh hay mày đen, để bận ra ngoài áo dài, trong những dịp long
trọng như cúng tế, vào chầu vua, v.v....
Trong lúc dân gian dói
khát, cơm không có mà ăn, phải ăn khoai, ăn sắn cho qua bữa thì vua
chúa thời bấy giờ cá thịt tràn trề, thế mà bữa ăn nào các ngài cũng chê
đồ ăn dở "nuốt không xuống". Trạng Quỳnh đã tìm ra phương chữa được bệnh ấy.
Truyện Món ăn " đại phong" của Quỳnh " Chúa thường phàn nàn ăn cơm không biết ngon. Một hôm Trạng Quỳnh thưa với Chúa: - Chắc Chúa Thượng bị đau bao tử hay yết hầu nên ăn không thấy ngon.
- Các ngự y đã chẩn bệnh kỹ rồi, ta không đau gì hết, mà không rõ tự
sao ăn không thấy ngon. Nhà ngươi có cách gì giúp ta ăn ngon không? " Trạng Quỳnh thưa:
- Thần có phương pháp nấu ăn gia truyền kết hợp công phu cả thảo mộc,
tinh tú, âm dương, phong vũ. Nếu Chúa Thượng chẳng bệnh tật gì mà ăn
không thấy ngon thì thần xin cam đoan có món ăn nầy Chúa Thượng sẽ hoàn
toàn vừa ý. " Chúa ra lệnh cho Quỳnh nấu món ăn ấy. Quỳnh lấy một
hòn đá bỏ vào nồi rồi bảo đầu bếp nấu chừng nào thấy rục thì dọn lên
cho Chúa xơi. Quỳnh dặn Chúa gắng đợi để ăn món ấy, đừng ăn gì trước mà
mất ngon, rồi bỏ đi chơi quanh phố. Đến quá trưa, Chúa hỏi đầu bếp,
đầu bếp xem trong nồi, đá vẫn cứng chưa rục, nên trả lời món ăn chưa
chín. Chúa đói bụng quá coi chừng chịu không thấu, thì Quỳnh vừa trở
về, đến xem nồi nấu đá, nói vẫn chưa chín rục, liền thưa với Chúa: - Nếu Chúa Thượng thấy quá đói thì Thần xin dâng một món ăn nhỏ mọn nầy, Chúa Thượng dùng tạm, trong lúc chờ đợi.
" Quỳnh liền lấy ra một lọ, ngoài có dán giấy đề hai chữ "đại phong".
Chúa mừng quýnh, khui ra ăn với rau muống luộc, có cảm giác lạ miệng,
thấy ngon tuyệt trần. Chúa ban thưởng cho Quỳnh và hỏi món ăn ấy là
gì, sao lại có tên là "đại phong" ? - Thưa Chúa Thượng "đại phong"
là tên chữ Hán, nôm na có nghĩa là "gió lớn". Gió lớn thì làm sụp chùa
chiền, chùa chiền bị sụp thì các pho tuợng lo lắng không yên. Mà "tượng
lo", nói lái lại " Bấy giời Chúa mới vỡ lẽ." (24)
Lọ tương
thì chả quí hóa gì ? đó là món ăn của dân gian thường dùng, nhưng
chẳng qua Chúa quá giàu sang, nên chưa hề ăn đến món ấy mà thôi. Chẳng
có thuốc gì, chẳng có món ăn gì khác hơn là lọ tương, thế mà khi Chúa
thấy "đói " thì ăn gì cũng thấy ngon. Truyện Nghe Trạng Quỳnh hạch tội
" Một hôm trong phủ Chúa có tên lính hầu sơ ý làm bể chiếc độc bình rất
quí. Chúa Trịnh tiếc rẻ quay quắt, giận dữ hỏi các quan: - Ta thường nâng niu chiếc bình nầy như một gia bảo, nay tên lính hầu đánh bể, tội hắn có đáng chém không? " Thấy Chúa nổi giận, các quan sợ sệt, vội vàng dạ răm rắp. Duy có Trạng Quỳnh bình tĩnh, quỳ xuống tâu rằng: - Xin Chúa Thượng cho thần hài tội tên lính nầy, cho hắn khỏi oán than trước khi hồn về chín suối. " Chúa chuẩn tấu. Quỳnh thét đao phủ lôi tên lính kia ra trước sân rồng, rồi cao giọng phán: - Ngươi có ba tội đáng chết, đã biết hay chưa?
" Tội thứ nhất: Vô ý đánh bể độc bình của Chúa, ngươi chết đáng đời
rồi! Nhưng chết đi, ngươi còn mang tội là sẽ làm lưu tiếng xấu lại cho
Chúa, là Chúa đã xem của trọng hơn người. " Tội thứ hai: Ngươi
lãnh án tử hình, rồi đây Trung Quốc và các nước lân bang sẽ phẩm bình
bản án nầy là độc ác và khinh rẻ cả Chúa tôi nước ta. " Tội thứ
ba: Sau khi miệng thế lưu truyền, lại còn sử quan (a) có bổn phận ghi
rõ cùng hậu thế rằng ngày nầy, tháng nầy, năm nầy, Chúa Trịnh kết liễu
một kiếp người chỉ vì một chiếc độc bình cổ. " Với ba tội làm ô danh Chúa Thượng, thì phải đem chém đầu nó lập tức. Hỡi võ sĩ, khai đao ngay! " " Tên lính bị tử tội kia chưa kịp mở miệng xin tha, thì Chúa Trịnh đã thét: - Thôi, tha cho nó. Chỉ đánh mươi trượng cũng đủ." (25)
Chú
giải - (a) Sử quan là một chức thời phong kiến có nhiệm vụ ghi chép
một cách vô tư những hành vi, tốt hay xấu, của các vị vua. Vua và triều
đình chọn người có tư cách và có công tâm đảm nhận chức ấy. Những điều
sử quan ghi được bỏ trong một hộp khóa kỹ, chìa khóa sử quan giữ, vua
không có quyền xem.
Cái uy quyền do phong kiến ngoại lai đã nhượng bộ trước những lý luận chặt chẽ của một thường dân nước Việt. b) Uy quyền đế quốc xâm lược.
Quỳnh không đỗ được Trạng nguyên, nhưng chúa Trịnh vẫn trọng tài mà vời ra làm quan, và được dân gian khen xưng là Trạng. Quỳnh thường có những sáng kiến ích quốc lợi dân nên dược Chúa tín nhiệm và trọng đãi.
Về sau Quỳnh được cử đi sứ bên Trung quốc, nhờ có tài, thông minh và
lanh trí nên được vua Trung quốc sắc phong "Lưỡng quốc Trạng nguyên",
gây được uy tín cho nước nhà.
Sau đó Trung quốc gửi sứ sang nước ta, Quỳnh lại có dịp trổ tài để giữ thể diện cho quốc gia:
Truyện Mời sứ Trung quốc qua cổng chào
" Khi sứ thần Trung quốc sang nước ta, Quỳnh sai cất cổng chào, trên
có đề bốn chữ : "An Nam quốc môn". Sứ Trung quốc nhất định không chịu
đi qua dưới các chữ ấy, buộc phải xóa bỏ đi. Quỳnh cho như thế là làm
nhục quốc thể, và tuyên bố sẽ có cách dàn xếp. " Quỳnh ngầm sai vũ
nữ xinh đẹp múa hát tại các quán ăn phía ngoài kinh thành, Quỳnh trá
hình làm người bán quán, khi phái đoàn Trung quốc đến ăn nhậu, Quỳnh
chọc giận, xua đuổi bọn vũ nữ đi nơi khác. Quan Chánh Sứ can thiệp,
Quỳnh càng chọc giận, quan Chánh Sứ ức quá đuổi bắt Quỳnh. " Khi
túm được Quỳnh thì cả phái đoàn đã chui qua dưới các chữ "An Nam quốc
môn" lúc nào không hay. Bấy giờ quan quân của ta ùa ra, kèn trống đón
rước, rối rít cảm ơn quan Chánh Sứ đã vui lòng đi qua cổng. Lỡ bước
rồi, quan Chánh Sứ đành xí xóa yêu sách cũ của mình." (26) Truyện Thách xem ngựa và chọi trâu
" Sau vụ "cổng chào" trên đây, sứ Trung quốc dâng lên Chúa Trịnh hai
con ngựa cái vóc dáng giống hệt nhau và thách cả nước Nam ai có thể
đoán biết con ngựa nào là ngựa mẹ, con ngựa nào là ngựa con? "
Trạng Quỳnh bật cười, cho rằng lời thách thức quá dễ. Quỳnh liên sai
lính mang cỏ cho ngựa ăn. Xem hai con ngựa ăn cỏ, Quỳnh biết ngay con
nào là mẹ, con nào là con. Vì Quỳnh đã quan sát rằng ở loài ngựa, ngựa
mẹ lúc nào cũng tha cỏ cho ngựa con trước khi ăn. " Cuộc thách đố
xem ngựa bị thua, phái bộ Trung quốc sai người về nước đem một con trâu
to lớn và chọi giỏi nhất ở Trung quốc, sang thách chọi với trâu nước
ta. Hôm ra đấu trường, thấy trâu của Trung quốc, Chúa nghĩ là trâu ta bé
nhỏ hơn, thế nào cũng sẽ bị thua. Nhưng Quỳnh vẫn thản nhiên tâu: - Thần nhất định sẽ thắng cuộc chọi trâu nầy. " Đôi bên vạch lằn mức, giao hẹn trâu nào đang lúc giao đấu mà chạy thối lui khỏi lằn mức là thua cuộc.
" Tâu xong, Quỳnh ra lệnh dẫn trâu của ta ra. Mọi người hoảng sợ, ngạc
nhiên, vì đó chỉ là một con trâu nghé tí teo. Không ai hiểu nổi được
con nghé ấy làm sao có thể chọi lại một con trâu to lớn gấp ba, gấp bốn
nó được? " Số là con trâu nghé đã bị bỏ đói hai hôm rồi, vừa dẫn
ra đấu trường, thấy con trâu Trung quốc to lớn, nó liền nhào đến, không
phải để chọi, mà để... tìm bú vú, tưởng lầm đó là trâu mẹ. Bị trâu
nghé chun vào nách nhột quá, trâu Trung quốc chịu không nổi, cong đuôi
bỏ chạy, trâu nghé vội rượt theo, kêu la ầm ĩ. " Trâu Trung quốc đã thối lui, vượt qua lằn mức giao hẹn, nên bị thua cuộc." (27)
Cuối cùng, mặc dầu có công trạng, nhưng Quỳnh đã khinh miệt, mạt sát
Chúa Trịnh và quan lại thời bấy giờ quá độ, nên bị Chúa ra lệnh hạ sát.
Trước khi bị bức tử, Trạng Quỳnh cũng làm thế nào cho kẻ giết mình phải chết theo:
Truyện Quỳnh và Chúa cùng chết một lúc
" Quỳnh trêu chọc, hỗn láo với Chúa Trịnh nhiều lần, các nịnh thần lại
dèm pha thêm vào, nên Chúa quyết định hạ sát Quỳnh. Chúa hỏi Quỳnh: - Khanh tài giỏi, thông thiên văn địa lý, tướng số cổ kim, vậy khanh có biết hậu vận khanh đến bao giờ thi... chết? " Quỳnh hiểu ngay ý Chúa,liền trả lời: - Tâu Chúa Thượng, xưa nay Chúa và tôi trung cùng chết một lần. " Về nhà Quỳnh dặn vợ con rằng:
- Số ta đã đến, dù biết trước cũng không tránh được. Nếu ta chết rồi
thì cấm không được khóc, hoặc gây chấn động. Thi thể ta cứ đặt trên
võng, lấy kim chống hai mắt, hai tay cứ để kẹp sách, giống hệt như ta
thường nằm võng đọc sách. Đợi khi nào nghe tin Chúa chết, hãy làm lễ
mai táng cho ta, và đám táng của ta phải đưa trước đám ma của Chúa. Khi
khâm liệm thi thể phải đặt nằm úp mặt... " Quả nhiên ít hôm sau,
Chúa phao vu Quỳnh làm loạn, sai lính mang thuốc độc đến tận nhà ép
buộc Quỳnh phải uống. Quỳnh biết trước, chậm rãi bưng thuốc độc uống
cạn, lát sau tắt thở. Toán lính về phủ Chúa báo tin. " Vốn tính đa
nghi, Chúa sai một quan thân tín đến nhà Quỳnh dò xem động tĩnh thế
nào. Vừa bước vào nhà thấy mọi người chào hỏi vui vẻ, nhìn sang mé tây
thấy rõ ràng Trạng Quỳnh đang nằm trên võng, tay cầm sách, mắt mở to,
ông quan tức tốc trở về thuật rõ mọi chi tiết. " Chúa suy nghĩ,
ngờ vực viên Thái y lãnh phận sự pha thuốc độc đã pha thuốc... bổ cho
Quỳnh uống, liền truyền đem chất thuốc pha lại cho Chúa xem. " Đinh
ninh thuốc không độc, Chúa le lưỡi nếm thử. Không dè thuốc pha quá
mạnh, chỉ nếm một chút thôi mà Chúa đã sùi bọt mép, dãy dụa giây lát
rồi chết. " Vợ con của Quỳnh nghe tin, liền cử hành tang lễ đúng
theo lời Quỳnh đã căn dặn, thành thử đám ma Trạng đi trước đám ma của
Chúa." (28)
Nhận xét - Tóm lại, theo truyền thuyết, Trạng Quỳnh
là người đã có nhiều sáng kiến ích quốc lợi dân, đã tranh đấu với sứ
Trung quốc để bảo vệ thể diện quốc gia, đã chế diễu, trêu ghẹo, chống
đối tất cả những ai đã ức hiếp, bóc lột dân lành, từ Chúa Trịnh đến quan
lại, các quan chấm thi, cho đến những người có trách nhiệm các đền thờ
đã nhân danh thần thánh mà lấy tiền của dân gian để cho vay đặt nợ...
Nhưng về sau, các thành phần vua chúa, quan lại không thể chịu
đựng được những chỉ trích, chế diễu làm tổn thương đến uy tín của
chúng, nên chúng hạ sát Quỳnh. Trước khi chết, Trạng Quỳnh, đại diện
cho nền văn hóa dân tộc, đã làm cho Chúa Trịnh, đại diện cho văn hóa
ngoại lai, phải chết theo. Trạng Quỳnh đã góp phần vào công việc
bảo tồn bản sắc nguyên thủy của dân tộc bằng các ngăn chận những hà
lạm, quá trớn của mọi quyền hành chịu ảnh hưởng văn hóa ngoại lai, giữ
cho xã hội Việt Nam khỏi bị đồng hóa với ngoại bang. Về lai
lịch, có tác giả xác nhận Trạng Quỳnh là một nhân vật có thật, ngưòi
làng Yên Vực, họ Nguyễn, thông minh, tính ngang tàng, dự thi Cống Sinh
(cũng như cử nhân ở triều Nguyễn) đỗ thủ khoa, nhưng về sau khi thi
Đình, làm xong bài thi còn dư giấy, Quỳnh viết thêm mấy câu thơ để bông
đùa: " Văn chương phú lục đã xong rồi, " Thừa giấy làm gì chẳng vẽ voi. " Vẽ xuống vẽ lên nhằng nhịt đấy, " Thằng nào cười tớ nó ăn bòi ! Nên dù bài thi làm rất hay mà Quỳnh vẫn bị đánh hỏng.
Quỳnh có đến làm rể nhà họ Đoàn nhưng vì Quỳnh không đối được câu "Da
trắng vỗ bì bạch " của Đoàn Thị Điểm nên xấu hổ tự ý rút lui. (29)
Hiện nay, chúng tôi chưa có thể kiểm chứng lại khẳng định nầy. Có thể
đây là chỉ là một hiện tượng "lịch sử hóa" như trường hợp Truyện Tấm
Cám trước đây. Điều mà chúng tôi đã biết một cách chắc chắn là ở
các nước xung quanh ta có những truyện giống như truyện Trạng Quỳnh. Có
thể nói truyện Trạng Quỳnh nằm trong một hệ (cycle) các tác phẩm mà
dân gian các nước lân cận chúng ta đã dùng chế diễu, chọc ghẹo để chống
đối chính quyền áp bức, hay chống đối những nhà tu hành lợi dụng mê tín
để bóc lột tín đồ... Các tác phẩm ấy đã xuất hiện ở vùng bán đảo
Đông Dương trong hậu bán thế kỉ thứ XIX trước đây: - Ai Lao có Truyện
Xiêng Miêng (30), ở Thái Lan có Truyện Si Thanon Chay (31), ở Cao Miên
có Truyện Thmenh Chey (32). Trong các tác phẩm nầy có một số mẩu chuyện giống với Truyện Trạng Quỳnh của chúng ta: - Truyện Xiêng Miêng của Lào.
Một hôm nhà vua phàn nàn ăn không biết ngon, Xiêng Miêng nói y có cách
giúp vua được, xin vua đợi y đi lấy thuốc về uống đã, rồi hãy dùng
cơm. Song Xiêng Miêng đi quá lâu không thấy về, vua đợi không được liền
truyền đem cơm lên, và lần đầu tiên, vì thấy đói, nhà vua ăn một bữa
cơm chưa bao giờ thấy ngon lành đến như thế! Khi Xiêng Miêng trở lại,
vua hỏi thuốc đâu, y trả lời thuốc ấy nhà vua đã dùng rồi. Đó là "đói
", vì đói là thuốc hay nhất để chữa bệnh ăn không biết ngon. (33) Đại
khái cũng giống như chuyện "Món ăn đại phong" của Trạng Quỳnh. Lần
khác, vì bị Xiêng Miêng trêu ghẹo mãi, vua muốn chọc lại Xiêng Miêng.
Vua ra lệnh các quan đem theo mỗi người một số trứng gà, nhưng dấu
không cho Xiêng Miêng biết, để đến khi vua ngự ra sông chơi, thì sẽ ra
lệnh cho các quan nhảy xuống nước, bơi lội, mọi người phải giả làm một
con gà mái kêu "cục tác", vỗ cánh... lặn xuống nước để đẻ trứng, rồi
trồi lên, đem trứng đến dâng cho vua; tính rằng như thế, Xiêng Miêng
không có đem trứng theo sẽ bị bẽ mặt. Nhưng Xiêng Miêng lanh trí, y
không kêu "cục tác", mà y gáy "ó o " như gà trống, rồi vỗ cánh, nghểnh
đầu, bơi theo các quan "gà mái", nhảy chồm lên lưng đòi "đập mái ". Các
quan hoảng sợ, có vị suýt bị chết chìm, kéo nhau lên kiện với vua. Vua
hỏi, Xiêng Miêng đáp nhờ có y nên các quan mới có trứng mà dâng cho
vua, chớ chỉ có gà mái, không có gà trống đập mái thì làm sao mà đẻ
trứng được, thật ra phần y cũng có hai trứng dính trong người (!) mà y
không thể nào dâng cho vua được (34). Vua nghe xong bật cười. Câu
chuyện nầy cũng giống chuyện "Dê đực có chửa" của Trạng Quỳnh. Truyện Si Thanon Chay của Thái là một dị bản của Truyện Xiêng Miêng ở Lào (35), nên cũng có các mẩu chuyện vừa kể trên, giống với truyện Trạng Quỳnh của chúng ta. - Truyện Thmenh Chey của Cao Miên
có việc Thmenh Chey dùng trâu nghé chống với trâu chọi, (36) giống như
trong chuyện "Sứ Tàu thách chọi trâu" của Trạng Quỳnh. Và có lần vua
Cao Miên, vì tức giận gì Thmenh Chey, nên sai tất cả đàn bà trong cung
đến vườn của y để "đại tiện" ở đấy. Nhưng Thmenh Chey xem bà nào lúc ấy
"tiểu tiện" thì lấy gậy đánh túi bụi. Các bà hoảng sợ chạy về tâu với
vua. Vua sai lính bắt Thmenh Chey đến hỏi nguyên do, y tâu rằng vì lệnh
của vua chỉ truyền "đại tiện" mà thôi, chớ không thấy truyền cho "tiểu
tiện", vì vậy bà nào vừa "đại tiện" lại vừa "tiểu tiện" là làm trái với
lệnh của vua, cho nên y phải trừng trị. Vua không biết nói thế nào
nữa, nên đành chịu vậy (37). - Truyện Trạng Quỳnh của chúng ta cũng có
chuyện y như thế, chỉ khác là những người Chúa sai đi "đại tiện" không
phải là đàn bà trong phủ mà là quân lính, và sau đó Quỳnh liền lợi dụng
số phân ấy để trồng cải. Khi cải lớn lên, xanh tốt, Quỳnh đem biếu
Chúa, Chúa ăn, khen ngon, hỏi làm sao mà khéo trồng được như thế, Quỳnh
trả lời đó là nhờ ơn Chúa cho lính ra vườn của Quỳnh bón phân kỳ vừa
rồi. Chúa tức giận vô cùng, nhưng không thể nào bắt bẻ gì được (38). Có thể đó là một trong những lý do khiến cho về sau Chúa Trịnh ra lệnh hạ sát Quỳnh. Theo Jacques Népote, những nhân vật nầy (Trạng Quỳnh, Si Thanon Chay, Thmenh Chey)
đã đóng vai trò điều hoà giữavăn hóa nguyên thủy của các dân tộc bản
xứ ở bán đảo Đông Dương với thể chế, học thuyết, tín ngưỡng từ Trung
Hoa, hay từ Ấn Độ du nhập vào. Họ đã hạn chế các ảnh hưởng ngoại lai để
thích nghi hóa với môi trường địa phương, duy trì được thế quân bình
ổn định giữa hai dòng quyền lực chính thống: văn hóa bản sắc địa phương
và văn hóa ngoại lai. (39) Lichtenstein J.
giả thiết rằng các truyện kiểu Si Thanon Chay, có thể bắt nguồn từ
Dhananjayapandita Jataka của Ấn Độ, kể lại tiền kiếp của Phật Thích-Ca,
khi còn là Bồ Tát, làm Cố vấn cho vua nước Dvaravati. Bồ Tát rất thông
minh, tài giỏi, khôn ngoan và đã nhiều lần cứu khổn phò nguy cho quốc
vương nước Dvaravati. Có thể khi Jataka nầy du nhập vào vùng Thái, Lào
thì dân gian địa phương đã trích lại từng sự việc, đem biến đổi đi để
xây dựng các Truyện kiểu Si Thanon Chay, Thmenh Chey, rồi theo luân lưu
văn hóa, các truyện ấy du nhập dần dần vào các nước lân cận để phát
sinh các dị bản Xiêng Miêng hay Trạng Quỳnh. (40). Đặc điểm
của các tác phẩm nầy là tính cách trào lộng cho vui tai, chửi đời cho
hả hê, khoái trá. Độc giả càng cười trước những lố lăng, những tật xấu
của người đời bao nhiêu, thì lại càng thấy công phẩn trước những bất
công và những bộ mặt tiêu cực, sa đọa của những thể chế nhân quần, xã
hội bấy nhiêu!
c) Các nhân vật phản diện trong dân gian.
Ngày xưa, ở xã hội nông thôn, trong những hạng người tiêu biểu nhất,
có các nhà sư, các thầy phù thủy, các thầy đồ, các lý hương chức sắc,
các vị khoa bảng, các nho sinh... là những hạng người đã được đào tạo
từ văn hóa phong kiến Nho, Phật, Lão mà ra. Và ở mỗi hạng người nầy, bao giờ cũng có những nhân vật chính diện và những nhân vật phản diện.
Những nhân vật chính diện thì đạo đức, mô phạm, đúng đắn được nhân dân
hâm mộ, kính phục, còn những nhân vật phản diện, tuy mang danh là nhà
sư, thầy đồ, thầy cúng, ông lý trưởng, ông Trạng Ếch, Trạng Lợn, ông Ba
Giai, ông Tú Xuất... mà kỳ thật bản chất bên trong dâm ô, bất lương lừa
gạt, phá phách, bị nhân dân khinh dễ và ghét sợ. 1) Thần thánh cho vay đặt nợ.
Có một lão thầy bói từng trãi, thấy Trạng Quỳnh hay chống đối việc bói
toán dị đoan, nên xúi Quỳnh đến vay tiền đền Sòng của bà Chúa Liễu
Hạnh, dụng ý muốn dùng tay thần thánh mà làm hại ông Trạng ngông nghênh
nầy. Tục truyền bà Chúa Liễu Hạnh là công chúa trên thiên đình, vì
lỡ tay đánh rơi chén ngọc, phải xuống trần gian làm con gái họ Lê ở
làng Vân cát, tỉnh Nam Định. Lớn lên bà lấy chồng, sinh hai con
trai, rồi thác về trời. Còn lưu luyến cõi nhân gian ngày tháng cũ, bà
lại rời chốn tiên cung, trở lại dương thế trêu ghẹo thiên hạ. Bà Chúa
Liễu rất hung dữ, dân gian sợ hãi khôn cùng. Khi bà đi qua thăm Thanh
Hóa, ghé Sòng Sơn, thấy nơi thủy tú sơn kỳ, bà báo mộng cho dân làng
lập đền thờ phụng. Bà thường hiện hình cô gái mỹ miều, trêu chọc thư
sinh, ai cợt nhã đều bị bẻ cổ. Về sau, Vua Lê phong sắc, bà mới thôi quấy phá.
Truyện Trạng Quỳnh vay tiền bà Chúa Liễu Hạnh
" Vì bà Chúa Liễu quá linh thiêng, dân gian kéo nhau đến đền Sòng cầu
xin ơn phước, tiền dâng lễ ngày một nhiều, dư dả để cho vay. " Trạng Quỳnh, theo lời xúc sử của một lão thầy bói, đến dền Sòng khấn rằng:
- Nếu bà Chúa muốn cho vay lấy nửa lời thì gieo quẻ có đồng tiền sấp,
đồng tiền ngửa; nếu bà Chúa không lấy lời thì hai đồng cùng sấp; nếu cho
vay không kỳ hạn ngày trả thì cả hai đồng đều ngửa. " Dường như bà
Chúa linh ứng thật, nên Quỳnh vừa tung tiền xuống dĩa, hai đồng tiền
cứ quay tít, quay mãi, không thể phân biệt sấp hay ngửa. Quỳnh liến
thoắng reo lên: - A ! Tiền múa Chúa mừng ! Điềm nầy bà Chúa có lẽ thương kẻ nghèo, muốn tặng luôn đấy.
" Rồi Quỳnh thản nhiên vét tiền bỏ túi. Mọi người chứng kiến đều đinh
ninh Quỳnh sẽ bị bẻ cổ, không ngờ Quỳnh vẫn sống nhởn nhơ. " Mấy
tháng sau, Quỳnh lại đến xin keo để làm rẽ ruộng bà Chúa. Quỳnh khấn sẽ
chia hai, Chúa lấy ngọn, Quỳnh lấy gốc. Quẻ keo cho biết Chúa đồng ý.
" Quỳnh về trồng khoai, đến mùa gánh giây khoai đem chất đầy đền Sòng,
riêng củ khoai dành lấy phần mình. Kể như bà Chúa bị gạt ! " Lần
thứ hai, Quỳnh lại xin làm rẽ. Quẻ keo lần nầy cho biết bà Chúa muốn
phần gốc. Quỳnh ra về, cùng người nhà làm lúa, đến mùa Quỳnh đem từng
gốc rạ đến đền Sòng cho bà Chúa, còn lúa thì gánh về nhà mình. Kể như
bà Chúa lại bị gạt ! " Lần thứ ba, Quỳnh vẫn không sợ oai bà Chúa,
đến xin làm rẽ như thường. Lần nầy quẻ keo cho biết bà Chúa đòi lấy cả
ngọn lẫn gốc. " Quỳnh về trồng bắp có trái mọc ra ở giữa thân cây.
Đến mùa, Quỳnh hái bắp đem về nhà, còn chở gốc lẫn ngọn, thêm cả râu
bắp, bẹ bắp đến đền Sòng chia cho bà Chúa. Kể như bà Chúa bị gạt lần thứ
ba. Nhưng lần sau, Quỳnh đến xin keo, hai đồng tiền nhất định bị văng
ra khỏi dĩa, bà Chúa không muốn làm ăn với kẻ ương gàn, gạt gẫm. " Tuy vậy, Quỳnh vẫn chưa buông tha. Một hôm vợ bảo ra chợ mua bò, nhân đi qua đền Sòng, Quỳnh lại ghé vào, khấn rằng: - Xin bà Chúa phù hộ cho kẻ nghèo nầy mua được giá rẻ, cam đoan sẽ dâng bà Chúa một con bò.
" Có lẽ bà Chúa lại thương tình Quỳnh nghèo khó nên đã ngấm ngầm giúp
cho Quỳnh mua được bò với giá thật hời. Lúc trở về, Quỳnh dắt vào đền
một con bò mẹ và một con bò nghé, khấn: - Đội ơn bà Chúa, Quỳnh xin dâng bà con bò mẹ, gọi là có chút lòng thành ! " Từ kẻ giữ đền cho đến mọi người có mặt đều ngạc nhiên vì sao lần nầy Quỳnh lại cung kính như thế.
" Không ngờ khi Quỳnh dắt bò nghé đi, thì bò nghé nhớ mẹ kêu inh ỏi.
Bò mẹ đang bị cột ở góc bàn thờ lập tức nhảy cỡn lên, vùng vẫy kéo đổ
hết nhan đèn, cùng chè, xôi, chuối, bánh bày cúng trên bàn. Ông từ sợ
hãi, mở giây trói, tức thì bò mẹ vùng chạy theo bò nghé về nhà Quỳnh.
Ông từ và nhóm người thường xuyên đến lễ bái ở đền Sòng toan bắt vạ
Quỳnh, nhưng nghĩ tới nghĩ lui, bà Chúa mà còn chịu thua, sức mấy mà họ
dám đương đầu với ông Trạng ngông nầy." (41)
2) Các nhà tu hành, mô phạm, chức sắc hủ hóa
Truyện nhà sư, lý trưởng và thầy đồ mê gái
" Ngày xưa có một người đàn bà mới lấy chồng, chưa có con, trẻ, đẹp,
trong làng nhiều người để ý gạ gẫm đã lâu, trong số đó có một nhà sư,
một lý trưởng và một thầy đồ. " Chị chàng đem việc ấy mách với chồng và cả hai sắp đặt với nhau để đưa cả ba vào tròng.
" Hôm sau, gặp nhà sư đi ngang qua nhà để gạ gẫm, chị làm bộ ưng
thuận, hẹn đến canh hai thì đến nhà mình. Rồi chị cũng hẹn với lý trưởng
và thầy đồ vào khoảng canh hai như thế. " Tối hôm ấy, nhà sư đến
trước, chị ta đón tiếp niềm nở. Sư chưa kịp giở trò trống gì thì nghe
có tiếng gõ cửa. Sư cuống lên, chị ta liền bảo: - Thôi sẵn có cái
rọ đây, sư vào nằm trong ấy, tôi rút lên xà nhà, hễ ai hỏi thì tôi bảo
là cái chuông nhà chùa mới gửi. Nếu họ có gõ thì sư kêu lên boong boong
là được. " Sư đành phải nghe theo. Lý trưởng vào, chưa kịp giở trò gì thì lại có tiếng gõ cửa. Thầy lý sợ lắm. Chị ta bảo:
- Hay là thầy chịu khó chui tạm xuống gầm giường, giả làm con chó vậy.
Ai có khua, thầy cứ kêu gâu gâu đôi ba tiếng thì không việc gì đâu.
" Lý trưởng bí đường cũng phải nghe theo. Cuối cùng thầy đồ đến, cũng
chưa kịp làm gì thì anh chồng về gõ cửa. Thầy đồ cuống lên, run như cầy
sấy. Chị vợ liền ấn thầy đồ vào cái hòm khóa chuông và nói: - Thầy chịu khó chui vào đống áo váy của tôi mà nấp tạm. " Người chồng vào nhà, thấy chị vợ nháy mắt, biết mưu đã thành, liền bảo vợ: - Mai có người mời ăn cỗ, ta phải xem lại quần áo ra sao. " Dứt lời, liền chạy lại mở hòm, thấy bùng nhùng ở trong đống váy áo, liền hét to: - Mèo hay chuột mà chui vào ở đống quần áo thế nầy. Đưa tao con dao, tao cho một nhát cho nó chết đi.
" Thầy đồ sợ quá đội cả váy áo đứng dậy van xin. Người chồng trói lại
một chỗ, rồi giả vờ nhìn xuống gầm giường. Lý trưởng vội sủa: "Gâu,
gâu". Người chồng hỏi: - Chó ở đâu thế? - Chó mới mua đấy. " Chồng bảo: - Con chó nầy hỏng, cắn cả người nhà. Đưa tao cái thước để đập cho nó một trận.
" Liền quơ tay thước phang luôn mấy cái. Lúc đầu lý trưởng còn kêu
"Gâu, gâu", sau đau quá phải thò mặt ra van xin. Anh chồng đem trói
lại. Đoạn nhìn lên xà nhà, hỏi: - Cái gì lủng lẳng thế kia? - Cái chuông nhà chùa mới gửi. - Có kêu không? Để ta đánh thử xem thế nào.
" Bèn lấy tay thước đánh, nhà sư vội kêu: "boong, boong", nhưng anh
chồng vẫn đánh luôn tay, nhà sư cuống lên, kêu: "Nam mô boong... Nam mô
boong" líu cả lưỡi. Sau cùng đau quá, van xin tha tội. " Anh chồng liền trói cả ba đem ra đình làng ngả vạ." (42)
Truyện Thầy phù thủy sợ ma " Xưa có một người làm nghề phù thủy, một hôm ngồi ăn cơm với vợ, vợ hỏi đùa rằng: - Mình có sợ ma quỉ không? - Mầy hỏi lạ ! Tao đây làm nghề trừ ma, trừ quỉ. Ma quỉ nó sợ tao thì có, chớ đời nào tao lại sợ nó bao giờ ?
" Một hôm thầy phù thủy đi đám đêm về khuya, người vợ rình nấp một
bên đường và đem theo một hòn than cháy đỏ hồng. Thầy đang xách một
đẫy đầy thủ, xôi, oản, chuối về qua tới bụi cây, thì nguời vợ cầm hòn
than dơ cao lên dần dần. " Thầy phù thủy đã sợ, nhưng còn tin phép mầu của mình, bằng bỏ đẫy xuống, vừa bắt quyết, vừa đọc câu thần chú: - Yểm ! Thiên lý thu lai, vạn lý thu lai ! (a)
" Vợ thấy vậy cố nhịn cười, cầm hòn than hoa đi hoa lại mấy cái, rồi
tung lên cao, lập loè như ma trơi.(b). Bây giờ thầy mất hết hồn vía,
cuống cuồng, rớt cả khăn, bỏ cả đẫy, vừa ù té chạy, vừa nói như kêu lên
câu thần chú như khi nãy. " Người vợ thủng thỉnh lại lấy cái đẫy
đem vô nhà mà thầy phù thủy không biết. Sáng hôm sau, đến bữa ăn, người
vợ đem những đồ trong đẫy ra dọn. Thầy phù thủy nhìn kỹ, lẩm bẩm một
mình: - Thủ... giống thủ! Xôi... giống xôi ! " Người vợ bật cười: - Thì thủ chẳng giống thủ, xôi chẳng giống xôi thì giống cái gì? Hay giống cái con ma trơi tối hôm qua? " Thầy biết mình mắc mưu vợ, ngồi cắm đầu xuống, không dám ngẩng lên nữa." (43)
Chú giải
- (a) Yểm, nghìn dặm thu lại! muôn dặm thu lại ! (b)- Ma trơi còn gọi
là ma đưốc. Những chất lân trong xương các hài cốt ở nghĩa địa bốc lên
cháy thành những đuốc nhỏ theo gió lập lòe, người không biết cho đó là
ma hiện lên. Nhận xét -
Thật ra dân gian luôn luôn tôn trọng các nhà sư có đạo hạnh, các thầy
đồ mô phạm, các ông lý trưởng bênh vực quyền lợi của nhân dân, các thầy
phù thủy cao tay ấn trừ tà diệt quỉ, nhưng không chấp nhận những tuồng
giả trá hư hèn. Hai cổ tích trên đây bố trí gọn gàng, hấp dẫn. Các
câu chuyện hài hước mua vui nầy, đồng thời đã đánh được một đòn trực
tiếp vào những kẻ giả đạo đức, đại diện cho văn hóa ngoại lai. Về lối
đối đáp, lý thú nhất là ở đoạn kết của vở kịch "phù thủy sợ ma", tác
giả dân gian sắp đặt thế nào cho cuối cùng người chồng thốt ra câu "thủ
giống... thủ", để người vợ vin vào đấy mà bắt qua câu nói kháy: "Hay
giống cái con ma trơi tối hôm qua". Nói mỉa, nói kháy là cái sở trường
của những chuyện tiếu lâm, trào lộng.
Võ Thu Tịnh
Nguồn: Trang nhà Võ Thu Tịnh
|