Kẹo Cu Đơ Hà Tĩnh
Nếu
như ở Thanh Hóa có bánh gai, ở Quảng Ngãi có kẹo gương thì ở Hà Tĩnh có
kẹo cu đơ. Một đặc sản khiến bao người con của quê hương "Đi mô rồi
cũng nhớ về Hà Tĩnh", hay khách thập phương đã từng một lần được nếm thử
thì khó có thể quên.
Kẹo cu đơ lúc đầu có tên là cu hai. Sau này khi phong trào Tây học nở
rộ, từ "hai" được các ông nghè nơi đây chuyển sang tiếng Pháp là "Deux"
cho nó "trí thức". Từ đó, "cu deux" được đọc chệch thành cu đơ.
Công đoạn làm cu đơ nghe qua thì dễ nhưng hóa ra lại khó làm. Để có
được miếng kẹo cu đơ thơm ngon thì người làm bánh phải tuân thủ những
quy trình nghiêm ngặt
Trước tiên, chọn mật là phải mật mía nguyên chất, thật trong vàng óng
và phải lấy mật mía ở vùng đồi chứ không mua ở vùng sông. Đồ đựng mật
phải là chum sành trơn bóng để chất liệu của mật không bị biến chất. Rồi
lạc (đậu phộng) phải là loại hạt nhỏ, không bị lép, thối, không bị sâu
mọt, không bị trầy vỏ lụa ngoài. Và cuối cùng, bánh tráng phải nhỏ hơn
bánh thường, các nếp quăn đều, khi nướng không được để bánh thủng và
phải chín đều.
Có đủ mật, đậu phộng, bánh tráng thượng phẩm chưa hẳn đã nấu được kẹo
ngon vì kỹ thuật nấu mới là bước quan trọng. Theo quy trình thì khi mật
sôi sục mới cho gừng, lạc vào khuấy đều tay, liên tục theo chiều kim
đồng hồ nếu không lạc sẽ bị trầy vỏ hoặc chìm xuống đáy nồi và bị cháy,
kẹo sẽ bị đắng.
Khi bắt đầu ngửi thấy mùi thơm, người ta dùng đũa nhỏ một giọt mật
vào bát nước lã. Giọt mật khi rơi xuống nước tròn vo, không bẹp, không
tan loãng là múc ra cho vào bánh tráng. Đây là điểm cốt lõi trong kỹ
thuật nấu bởi nếu sớm quá kẹo sẽ dẻo, kết dính yếu, mật non, lạc chưa
chín, nếu muộn quá mật cháy, lạc cháy, bánh sẽ bị đắng. Cuối cùng, người
ta nhỏ vào một ít mạch nha cho kẹo có mùi thơm rồi úp lên một chiếc
bánh tráng nữa là được.
Một miếng cu đơ thơm ngon khi ăn phải hội đủ các vị ngọt ngào của
đường mía hòa quyện với chút thơm nồng cay cay của gừng tươi, pha một
chút chua nhẹ của chanh cùng với bánh tráng vừng được nướng đúng độ tạo
nên hỗn hợp bánh thật giòn tan và ngọt ngào.
Hiện nay ở Hà Tĩnh có rất nhiều điểm làm cu đơ nhưng nổi danh nhất
vẫn là cu đơ Thư Viện của Cầu Phủ, dù giá cao hơn những điểm khác nhưng
vẫn đông người mua. Bởi vậy mới có thương hiệu: "Cu đơ Cầu Phủ không nhủ
cũng mua".
Mỗi lần tôi về thăm quê được nhâm nhi kẹo cu đơ với bát nước chè xanh mới thấy tuyệt vời, đúng như các cụ ngày xưa vẫn ngâm nga:
"Chè xanh thêm chút gừng cay
Cu đơ Hà Tĩnh làm say lòng người".
THANH TÂM (Hà Tĩnh)
Bài 2:
Kẹo Cu Đơ
Mỗi
buổi chiều tàn, khi những đụn khói bắt đầu len qua những nóc nhà tranh
thì ở phía tây cầu Phủ, người đi đường như bị níu kéo bởi mùi thơm của
mật mía, đường, mạch nha, gừng hòa quyện vào nhau. Đó là những nguyên
liệu làm nên kẹo cu đơ, một loại kẹo đặc sản của tỉnh Hà Tĩnh mà người
xưa đã từng ngâm nga:
"Chè xanh thêm chút gừng cay, cu đơ Hà Tĩnh làm say lòng người".
Huyền thoại kẹo cu đơ
Ngày
xưa, ở một làng thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, một gia đình nọ
có hai đứa con trai khôi ngô tuấn tú nhưng nhà lại rất nghèo. Họ làm
quần quật suốt ngày mà cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm. Một hôm cậu con
trai cả về thưa với cha mẹ là sẽ cưới vợ. Hai ông bà lo lắng không biết
lấy đâu ra đồ sính lễ. Nhà lại không có rượu, không có heo, không có
nếp lấy gì mà đãi bà con chòm xóm. Trong lúc bế tắc, người cha mới đánh
liều nấu mật mía sôi lên rồi đổ lạc (đậu phộng) vào. Khi đem ra đãi,
ai ăn cũng thấy ngon. Được mọi người ưa thích, ông tiếp tục nấu và đem
đi bán ở những làng lân cận. Từ đó, kiểu nấu mật mía với lạc lan rộng
khắp huyện Hương Sơn.
Ban đầu nó có tên là kẹo lạc (vì chỉ có
mật mía và lạc) nhưng người ta thấy như vậy là bất công cho người sáng
chế nên gọi là kẹo "cu Hai” (một người cha có hai thằng con trai). Khi
phong trào Tây học nở rộ, những ông nghè ở đây mới đổi từ "Hai" thành
"Deux" (tiếng Pháp có nghĩa là hai, số 2) cho "trí thức". Còn "cu" chỉ
có người Việt Nam mới dùng, là tên gọi thân mật dành cho con trai (cu
Tý, cu Tèo). Các cụ vắt óc suy nghĩ cũng không biết đổi từ "cu” như thế
nào, đành kết hợp cách gọi Việt - Pháp là "cu deux" (cu đơ). Xung
quanh cái tên gọi dân dã này cũng có nhiều cách giải thích. Đó là vào
thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, khi những người lính Pháp vô tình ăn
trúng kẹo "cu Hai”, ghiền quá mới cho người truy tìm. Khi biết tên gọi
của nó, họ mới đổi từ "Hai" thành "Deux" cho phổ thông, để người Pháp
tiện gọi. Còn "cu" thì chịu, không biết đổi cách nào đành kết hợp đầu
Việt, đuôi Pháp là "cu Deux" (cu đơ).
Những bậc cao niên xưa
của vùng đất Hà Tĩnh có một thói quen rất tao nhã. Đêm đêm bên ấm nước
chè xanh cùng dăm ba miếng cu đơ, các cụ ngồi "tức nguyệt, ngắm hoa,
chờ sao rụng". Cu đơ ngày xưa chỉ có lạc với mật mía, khi nguội, nó
cứng như đá, mà kẹo thì không ghi "chống chỉ định: để xa tầm tay những
người răng yếu". Thế là sau một đêm "tức nguyệt", các cụ nhà ta răng
còn, răng mất. Đó là giai thoại vui mà các bậc cha chú thường kể cho con
cháu nghe để so sánh với miếng kẹo cu đơ ngày nay.
Nhà nhà nấu kẹo cu đơ
Không
phải là nơi xuất xứ, nhưng phường Đại Nài (thị xã Hà Tĩnh) là nơi giữ
được cái tinh túy của kẹo cu đơ. Phường này nằm gần cầu Phủ nên đã hình
thành một thương hiệu: "Cu đơ cầu Phủ". Chỉ có 154 hộ dân nhưng mỗi hộ
dân là một lò nấu kẹo nên người ta gọi phường này là "Làng cu đơ". Đây
là làng duy nhất của tỉnh Hà Tĩnh được cấp giấy chứng nhận hành nghề
thông qua "Chương trình phát triển doanh nghiệp cho phụ nữ trong lĩnh
vực chế biến thực phẩm ở miền Trung Việt Nam giai đoạn II". Vì thế ở
làng này đã có một thư viện lớn trưng bày kẹo cu đơ qua các thời kỳ.
Gia
đình bà Sáng có lò kẹo cu đơ khá nổi tiếng. Bà năm nay đã gần 70 tuổi.
Bà nấu kẹo cu đơ đã mấy chục năm nay. Con cái bà đã thành đạt, bà bảo
là "nhờ vào những nồi kẹo cu đơ, chứ làm nông nghiệp, lấy đâu ra tiền
cho chúng học hành". Cái quán nhỏ của bà lúc nào cũng đầy khách. Vào
buổi trưa, khi xung quanh đã chìm trong giấc ngủ, bà lại ngồi xắt từng
lát gừng mỏng. Bà giải thích rằng, ban đầu người ta dùng gừng như một
liều thuốc để chống sôi bụng. Nhưng bây giờ không có gừng thì không
phải là kẹo cu đơ.
Trước kia, kẹo cu đơ chỉ đơn thuần chỉ là
mật mía và lạc thì giờ nguyên liệu vô cùng phong phú. Người làng này đã
biết kết hợp một cách hoàn hảo giữa mật mía, đường, mạch nha, gừng, lạc
và bánh tráng. Chính những thứ gần gũi đó đã tạo nên một hương vị độc
đáo cho kẹo cu đơ. Theo bà Sáng, có một số làng chỉ nấu đường hoặc mật,
còn lạc thì rang lên. Nhưng như thế thì không ngon. Lạc không cần rang
mà phải phơi cho thật giòn. Theo quy trình, mật mía, đường, mạch nha
trộn chung nấu trước, khi sôi mới đổ lạc vào. Đây là lúc khó khăn nhất
vì cần phải khuấy đều liền tay, nếu không sẽ bị cháy dưới đáy nồi. Sau
cùng mới bỏ gừng vào. Vào mùa nắng phải nấu đến 1 tiếng đồng hồ, gọi là
nấu già, còn mùa mưa thì nấu non, chỉ cần 45 phút. Lò cu đơ của bà đã
được nhân rộng ở một số địa phương như Huế, Đà Nẵng.
Làng Đại
Nài phất lên nhờ có thêm nghề tay trái, nghề nấu kẹo cu đơ. Dì Quế năm
nay 53 tuổi. Dì mới nấu kẹo cu đơ được 4 năm, một ngày dì phải nấu tới 3
nồi. Mía, lạc, gừng đều tự trồng. Còn mạch nha và bánh tráng thì phải
mua. Với nguyên liệu sẵn có như thế, số tiền lời dì kiếm được rất khá.
Thấy dì kiếm tiền nhanh và đơn giản, anh em của dì trả bớt ruộng đất để
đầu tư vào lò cu đơ. Và bây giờ, gia đình dì ai cũng được cấp giấy
chứng nhận.
Còn gia đình dì Sương thì có truyền thống làm cu đơ
đã mấy đời. Trước đây, các cụ cũng chỉ nấu đơn giản với hai loại
nguyên liệu. Nhưng giờ con cháu đã biết kết hợp nhiều loại để có miếng
kẹo ngon nhất nên lò cu đơ của dì đã được người trong tỉnh truyền tai
nhau. Mỗi dịp cưới hỏi hay liên hoan, mọi người đều đến lò cu đơ của dì
để đặt hàng. Những người đi xuất khẩu lao động hay đi du học cũng đến
đây để mua, mang sang nước bạn làm quà.
"Làng cu đơ" trải dài
từ bến xe Hà Tĩnh cho tới cầu Phủ. Những chuyến xe khách Bắc - Nam mỗi
lần qua đây đều dừng lại để khách mua quà. Vào buổi sáng, ở làng này
nhộn nhịp bán hàng cho khách vào Nam, ra Bắc. Thế nhưng vào buổi chiều
thì khá im ắng. Vì thế, mỗi buổi chiều tàn, khi những đụn khói bắt đầu
len qua những nóc nhà tranh thì ở phía tây cầu Phủ, người đi đường như
bị níu kéo bởi mùi thơm của mật mía, đường, mạch nha, gừng hòa quyện vào
nhau. Mùi dẻo quẹo của mật mía nguyên chất, mùi cay cay của gừng, mùi
ngọt lịm của mạch nha khiến cho mọi người chỉ cần ngửi đã "say".
Người
Hà Tĩnh xem kẹo cu đơ như như linh hồn của quê hương. Những gia đình
có con đi làm ăn xa, cứ mỗi lần có người cùng quê vào thăm, nhất định
họ phải gửi theo vài bịch kẹo. Nếu như lâu lâu không có ai về, họ sẽ
gửi qua đường bưu điện. Ông Hùng, có 5 người con đều đi làm ăn ở trong
Nam, cứ vài tháng ông lại gửi kẹo cu đơ cho các con. Ông bảo rằng,
chúng nó đi gần 5 năm mà chưa về thăm quê, cứ sợ chúng quên. Ông phải
gửi để nhắc nhở con cái.
Ban đầu nhìn thấy miếng cu đơ sần sùi,
chẳng bắt mắt tí nào, ai cũng ngại ăn. Nhưng ai có "dũng cảm" nếm một
lần sẽ không bao giờ quên. Lúc miếng kẹo hòa tan trong miệng, ta không
thể phân biệt được có bao nhiêu thứ cấu thành. Tất cả là một cảm giác
ngọt lịm trên đầu lưỡi, vị cay cay của gừng và chất bùi bùi của hạt lạc
đọng lại mãi trong cảm giác. Kẹo cu đơ mang đậm dấu ấn của con người
Hà Tĩnh, bên ngoài thì sần sùi chất phác, tên gọi thì dân dã, đơn sơ
nghe đến nực cười nhưng bên trong là cả một nội lực tiềm tàng. Có phải
đó là thứ để mà "Ai đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh!".
Theo Bảo Thiên (Thanh Niên)
|