Món Ăn Đặc Thù Miền Bắc: Thái Bình
CỐM THANH HƯƠNG THÁI BÌNH
Cốm
Thanh Hương Thái Bình: Dù ai đó không thích đồ ngọt đi chăng nữa,
nhưng đã nếm bánh cốm Thanh Hương một lần hẳn nhớ mãi hương vị. Những
hạt nếp xanh màu lá lúa, thơm nức, ngọt ngào, từ bao đời làm nên thứ
bánh ''quốc tuý, quốc hồn'' dân tộc là bánh chưng, bánh dầy. Cái tinh
tuý của hạt gạo mới ấy thời kinh tế thị trường vẫn có cơ hội nổi trội
giữa trăm ngàn loại bánh ngon, của lạ trong ngoài nước. Bánh cốm Thanh
Hương, thành lễ vật ngày ăn hỏi, chạm ngõ nối duyên chồng vợ. Thưởng
thức món quà từ hạt gạo quê, nào mấy ai biết rằng, những hạt cốm đó lại
có xuất xứ từ làng Thanh Hương, xã Đồng Thanh (Vũ Thư), một xã nằm ven
sông Hồng êm ả, vốn thanh bình như tên gọi.
Ai mang nghề làm cốm về Thanh Hương, tôi mang câu hỏi đó theo suốt
chiều dài mùi hương nếp man mác đầu làng, cuối thôn nhưng đều nhận đựơc
câu trả lời: Từ thời các cụ xưa đã có nghề làm cốm ở nơi đây. Các cụ
giã bán tuần rằm, mùng một để thắp hương, trước là cúng tiên tổ, sau là
con cháu thụ lộc. Không thể thiếu mỗi rằm tháng 8 đón tết Trung thu,
đĩa cốm xanh gói lá sen ăn với chuối tiêu trứng cuốc, hay chục hồng
Thanh Hương khi ngắm trăng rằm lồng lộng. Tháng 10 mùa gặt nếp cái hoa
vàng, tiếng chày giã cốm rải hương lúa mới khắp làng. Quanh năm, chồng
cày, vợ cấy, mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày, đón tay hạt cốm thơm
lành cũng là đón mùa vàng no ấm. Vào cuối chiều, mấy bố con anh
Nguyễn Viết Toại chưa ngừng tay đóng cốm vào bao. Gia đình anh gắn bó
với nghề làm cốm từ năm 1992, nhưng anh bảo thủa bé, anh từng chạy
thau, tức là phục vụ bưng bê ở chỗ giã cốm. Mỗi cối làm cốm, ngoài hai
thợ giã loại cối giã chân, một người đảo, một người ngồi bếp rụt củi
lửa và đổ thóc vào rang, vẫn phải có một người đứng chạy thúng, bê ra,
bê vào phục vụ người giã.
Những năm đó, cốm làm thủ công 100%
nên năng suất không thể như bây giờ từng khâu đã bán cơ giới máy móc
thay người. Muốn có cốm dẻo ngon, không thể không kén thóc. Nhà nào cấy
nếp, thợ làm cốm đến xem tận ruộng, trả giá rồi định ngày gặt. Vì quen
nghề, nên phải gặt lúc thóc vừa đỏ đuôi. Non quá khó giã bết dính, già
quá, khi rang thóc nở thành nẻ. Gặt về, tuốt thóc đem đãi sạch sẽ, hạt
lép, đem rang bằng chảo gang vũm lòng, đun bằng củi. Rang xong cho ngay
vào cối giã, rồi sàng sảy sạch. Để tạo màu xanh của hạt cốm có nhiều
cách, nhưng chủ yếu vẫn là dùng lá cơm nếp, lá lúa, lá gừng hoặc lá
cau, giã lấy nước cốt rồi hoà vào cốm, đảo đều tay. Anh Toại kể:
Hơn mười năm trước, có một người thợ cơ khí đến làng, xem làm cốm rồi
nói với mọi người sẽ chế ra máy giã, máy rang, nếu anh đồng ý mua giá
tiền như thế, ông sẽ mang máy đến. Tưởng nói đùa cho vui, ai ngờ người
đó mang máy đến thật. Sau này, cứ học kiểu cách, khuôn mẫu chiếc máy
đầu tiên, rồi thợ khác cứ như thế mà làm, mà cải tiến. Thời điểm đó, anh
Toại mua 1,8 triệu đồng/1 máy giã, hơn 1 triệu đồng/máy rang thóc, giờ
nguyên vật liệu đắt lên mua trọn bộ khoảng trên 6 triệu đồng. Ba thôn
Thanh Hương I, 2,3 có trên chục hộ chuyên đi mua thóc nếp khắp các xã
trong tỉnh, hàng ngày cung ứng cho bảy, tám chục máy rang, máy giã.
Được ưa chuộng nhất là dòng nếp N87, N97, thóc mẩy, sáng hạt. Thóc già
đã phơi nỏ, đem về ngâm nước lã hoặc nước ấm tay trong một đêm. Vớt ra
thúng hoặc rá cho ráo nước. Mỗi mẻ rang không nhiều, chỉ miệng bơ đong
gạo 8 lạng là vừa. Chảo rang đặt trên bếp than, phía trên chảo có dụng
cụ cải tiến, đảo liên tục cho thóc chín đều. Khi nào nghe thấy tiếng nổ
tách tách của hạt thóc là xúc ra cho vào máy giã. Cần cối làm bằng gỗ
nhóm 4, nhóm 5, có bộ phận cắm điện, để cối giã tự động. Một người ngồi
đầu cối dùng 1 đĩa sắt tây đảo liên tục. Sau khi giã cho vào máy gần
giống máy sát, thổi hết vỏ trấu và loại các phôi thóc. Để tạo ra thành
phẩm sạch hơn, còn phải sàng sảy hoàn toàn thủ công. Từng đó công đoạn
mới cho ra hạt cốm mộc, không nhuộm màu. Nếu chủ hàng cần cốm màu vàng
thì nhuộm nước dành dành, nghệ, cốm màu xanh dùng màu thực phẩm. Tốt
nhất vẫn là dùng nước cốt của lá nếp để nhuộm, vừa thơm vừa dẻo và an
toàn. Anh Toại là một trong số 10 đại lý lớn của thôn Thanh Hương I
chuyên nhận cốm của các hộ, làm công đoạn cuối sàng sẩy sạch sẽ đóng bao
thuê xe đem lên Hà Nội. Mỗi hộ có trên dưới chục mối hàng ở Hà Nội. Họ
mua cốm Thanh Hương về chế biến bánh cốm, chè cốm... Cả thôn có 10 đại
lý thu mua cốm của 35 máy giã. Anh cho biết, vào mùa cưới hỏi, cứ 4
ngày anh giao 1 tấn hàng, lúc ế cũng phải 3-5 tạ. Nhẩm tính: nếu mỗi hộ
cung cấp cho Hà nội 7,5 tấn/tháng, chỉ 10 đại lý ở thôn Thanh Hương I
xuất 75 tấn/tháng. Hai thôn Thanh Hương 2 và Thanh Hương 3, làm ít hơn,
cộng lại cũng lượng bằng đó, mỗi năm, làng nghề chế biến tiêu thụ
chừng trên 2000 tấn thóc, chưa tính những hộ làm bánh cuốn...
Với
gần 100 hộ gắn bó với nghề làm cốm quanh năm và chuyên tráng bánh cuốn,
làm đậu, làng Thanh Hương nay đã và đang vươn lên thoát khỏi đói nghèo
từ chuyển đổi cây trồng vật nuôi, khôi phục nghề truyền thống. Thanh
Hương được công nhận là làng nghề chế biến lương thực năm 2004. Trên
trục đường về UBND xã, xuất hiện ngày càng nhiều những ngôi nhà cao
tầng kiểu dáng Thành phố của những đại lý nghề cốm... Cấp uỷ, chính
quyền và nhân dân ở đây rất mong huyện và ngành chức năng của tỉnh giúp
bà con xây dựng thương hiệu cho hạt cốm Thanh Hương, để hạt gạo nếp
thơm của quê nhà được khách xa gần biết đến.
_______________________________________________
CỐM THANH HƯƠNG THÁI BÌNH
Cốm
Thanh Hương Thái Bình: Dù ai đó không thích đồ ngọt đi chăng nữa,
nhưng đã nếm bánh cốm Thanh Hương một lần hẳn nhớ mãi hương vị. Những
hạt nếp xanh màu lá lúa, thơm nức, ngọt ngào, từ bao đời làm nên thứ
bánh ''quốc tuý, quốc hồn'' dân tộc là bánh chưng, bánh dầy. Cái tinh
tuý của hạt gạo mới ấy thời kinh tế thị trường vẫn có cơ hội nổi trội
giữa trăm ngàn loại bánh ngon, của lạ trong ngoài nước. Bánh cốm Thanh
Hương, thành lễ vật ngày ăn hỏi, chạm ngõ nối duyên chồng vợ. Thưởng
thức món quà từ hạt gạo quê, nào mấy ai biết rằng, những hạt cốm đó lại
có xuất xứ từ làng Thanh Hương, xã Đồng Thanh (Vũ Thư), một xã nằm ven
sông Hồng êm ả, vốn thanh bình như tên gọi. Ai mang nghề làm cốm về
Thanh Hương, tôi mang câu hỏi đó theo suốt chiều dài mùi hương nếp man
mác đầu làng, cuối thôn nhưng đều nhận đựơc câu trả lời: Từ thời các
cụ xưa đã có nghề làm cốm ở nơi đây. Các cụ giã bán tuần rằm, mùng một
để thắp hương, trước là cúng tiên tổ, sau là con cháu thụ lộc. Không
thể thiếu mỗi rằm tháng 8 đón tết Trung thu, đĩa cốm xanh gói lá sen ăn
với chuối tiêu trứng cuốc, hay chục hồng Thanh Hương khi ngắm trăng
rằm lồng lộng. Tháng 10 mùa gặt nếp cái hoa vàng, tiếng chày giã cốm rải
hương lúa mới khắp làng. Quanh năm, chồng cày, vợ cấy, mồ hôi thánh
thót như mưa ruộng cày, đón tay hạt cốm thơm lành cũng là đón mùa vàng
no ấm. Vào cuối chiều, mấy bố con anh Nguyễn Viết Toại chưa ngừng
tay đóng cốm vào bao. Gia đình anh gắn bó với nghề làm cốm từ năm 1992,
nhưng anh bảo thủa bé, anh từng chạy thau, tức là phục vụ bưng bê ở
chỗ giã cốm. Mỗi cối làm cốm, ngoài hai thợ giã loại cối giã chân, một
người đảo, một người ngồi bếp rụt củi lửa và đổ thóc vào rang, vẫn phải
có một người đứng chạy thúng, bê ra, bê vào phục vụ người giã.
Những
năm đó, cốm làm thủ công 100% nên năng suất không thể như bây giờ từng
khâu đã bán cơ giới máy móc thay người. Muốn có cốm dẻo ngon, không thể
không kén thóc. Nhà nào cấy nếp, thợ làm cốm đến xem tận ruộng, trả
giá rồi định ngày gặt. Vì quen nghề, nên phải gặt lúc thóc vừa đỏ đuôi.
Non quá khó giã bết dính, già quá, khi rang thóc nở thành nẻ. Gặt về,
tuốt thóc đem đãi sạch sẽ, hạt lép, đem rang bằng chảo gang vũm lòng,
đun bằng củi. Rang xong cho ngay vào cối giã, rồi sàng sảy sạch. Để tạo
màu xanh của hạt cốm có nhiều cách, nhưng chủ yếu vẫn là dùng lá cơm
nếp, lá lúa, lá gừng hoặc lá cau, giã lấy nước cốt rồi hoà vào cốm, đảo
đều tay. Anh Toại kể: Hơn mười năm trước, có một người thợ cơ khí
đến làng, xem làm cốm rồi nói với mọi người sẽ chế ra máy giã, máy rang,
nếu anh đồng ý mua giá tiền như thế, ông sẽ mang máy đến. Tưởng nói
đùa cho vui, ai ngờ người đó mang máy đến thật. Sau này, cứ học kiểu
cách, khuôn mẫu chiếc máy đầu tiên, rồi thợ khác cứ như thế mà làm, mà
cải tiến. Thời điểm đó, anh Toại mua 1,8 triệu đồng/1 máy giã, hơn 1
triệu đồng/máy rang thóc, giờ nguyên vật liệu đắt lên mua trọn bộ
khoảng trên 6 triệu đồng. Ba thôn Thanh Hương I, 2,3 có trên chục hộ
chuyên đi mua thóc nếp khắp các xã trong tỉnh, hàng ngày cung ứng cho
bảy, tám chục máy rang, máy giã. Được ưa chuộng nhất là dòng nếp N87,
N97, thóc mẩy, sáng hạt. Thóc già đã phơi nỏ, đem về ngâm nước lã hoặc
nước ấm tay trong một đêm. Vớt ra thúng hoặc rá cho ráo nước. Mỗi mẻ
rang không nhiều, chỉ miệng bơ đong gạo 8 lạng là vừa. Chảo rang đặt
trên bếp than, phía trên chảo có dụng cụ cải tiến, đảo liên tục cho
thóc chín đều. Khi nào nghe thấy tiếng nổ tách tách của hạt thóc là xúc
ra cho vào máy giã. Cần cối làm bằng gỗ nhóm 4, nhóm 5, có bộ phận cắm
điện, để cối giã tự động. Một người ngồi đầu cối dùng 1 đĩa sắt tây
đảo liên tục. Sau khi giã cho vào máy gần giống máy sát, thổi hết vỏ
trấu và loại các phôi thóc. Để tạo ra thành phẩm sạch hơn, còn phải sàng
sảy hoàn toàn thủ công. Từng đó công đoạn mới cho ra hạt cốm mộc,
không nhuộm màu. Nếu chủ hàng cần cốm màu vàng thì nhuộm nước dành
dành, nghệ, cốm màu xanh dùng màu thực phẩm. Tốt nhất vẫn là dùng nước
cốt của lá nếp để nhuộm, vừa thơm vừa dẻo và an toàn. Anh Toại là một
trong số 10 đại lý lớn của thôn Thanh Hương I chuyên nhận cốm của các
hộ, làm công đoạn cuối sàng sẩy sạch sẽ đóng bao thuê xe đem lên Hà
Nội. Mỗi hộ có trên dưới chục mối hàng ở Hà Nội. Họ mua cốm Thanh Hương
về chế biến bánh cốm, chè cốm... Cả thôn có 10 đại lý thu mua cốm của
35 máy giã. Anh cho biết, vào mùa cưới hỏi, cứ 4 ngày anh giao 1 tấn
hàng, lúc ế cũng phải 3-5 tạ. Nhẩm tính: nếu mỗi hộ cung cấp cho Hà nội
7,5 tấn/tháng, chỉ 10 đại lý ở thôn Thanh Hương I xuất 75 tấn/tháng.
Hai thôn Thanh Hương 2 và Thanh Hương 3, làm ít hơn, cộng lại cũng
lượng bằng đó, mỗi năm, làng nghề chế biến tiêu thụ chừng trên 2000 tấn
thóc, chưa tính những hộ làm bánh cuốn...
Với
gần 100 hộ gắn bó với nghề làm cốm quanh năm và chuyên tráng bánh cuốn,
làm đậu, làng Thanh Hương nay đã và đang vươn lên thoát khỏi đói nghèo
từ chuyển đổi cây trồng vật nuôi, khôi phục nghề truyền thống. Thanh
Hương được công nhận là làng nghề chế biến lương thực năm 2004. Trên
trục đường về UBND xã, xuất hiện ngày càng nhiều những ngôi nhà cao
tầng kiểu dáng Thành phố của những đại lý nghề cốm... Cấp uỷ, chính
quyền và nhân dân ở đây rất mong huyện và ngành chức năng của tỉnh giúp
bà con xây dựng thương hiệu cho hạt cốm Thanh Hương, để hạt gạo nếp
thơm của quê nhà được khách xa gần biết đến.
_______________________________________________
BÁNH CÁY - THÁI BÌNH
Nhắc
đến Thái Bình người sành ẩm thực lại nghĩ ngay đến bánh cáy, một món
quà quê đặc sắc của quê hương "năm tấn". Làng Nguyễn (huyện Đông Hưng)
là nơi làm ra loại bánh cáy ngon nhất và có tiếng nhất.
Từ thành phố Thái Bình theo quốc lộ 10 tới thị trấn
Đông Hưng,ta rẽ trái sang quốc lộ 39, đi một đoạn là tới làng Nguyễn
quê hương của bánh cáy. Làng Nguyễn rất nổi tiếng với các sản phẩm của
nghề dệt, nghề chế biến thực phẩm song đồ quí tiến vua thì chỉ có bánh
cáy. Các cụ già trong làng kể lại: ngày xưa khi quan đại thần triều
đình đi kinh lý vùng châu thổ, khi qua làng Nguyễn được dân dâng lên
tiến vua vào mỗi dịp tết đến.
Làm bánh cáy khá phức tạp. Nguyên liệu chính của bánh
cáy là gạo nếp, nhưng các nguyên liệu phụ thì rất nhiều như: gấc, quả
hoặc là lá dành dành, lạc, vừng, cà rốt, gừng, vỏ quýt, mỡ lợn.
Gạo nếp làm bánh được chia làm 2 phần, một phần đồ
xôi với nước quả gấc tạo nên màu hồng thắm; phần còn lại đồ xôi với
nước quả dành dành tạo nên màu vàng tươi. Hai loại xôi này đều được giã
bằng chày như làm bánh giầy. Sau khi giã nhuyễn đều, cán mỏng, cắt
thành lát như mứt bí rồi sấy khô. Sấy xong cho vào chảo mỡ lợn đang sôi
đảo đều tới khi lát bánh thơm giòn.
Các nguyên liệu phụ như lạc, vừng được rang chín ròn,
xát bỏ vỏ. gạo nếp hoa vàng được rang nổ bỏng, nở tung, sạch trấu, dậy
mùi thơm. Mỡ lợn khẩu muối đường hơn nửa tháng, đem ra thái nhỏ như
hạt lựu, xào ngọt lấy độ trong, giòn. Cà rốt xào nước đường, nước gừng,
vở quýt tươi được chuẩn bị đầy đủ.
Cho các nguyên liệu đã chuẩn bị trộn đều với đường
mía, hâm nóng trên chảo đến khi đạt tới mùi thơm kỹ thuật thì đưa vào
khuôn gỗ được chuẩn bị sẵn có lót vừng bên trong, nhồi nén cho bánh trở
nên cứng, sau đó lấy ra cho vào bao bì, ta sẽ được bánh cáy thành
phẩm. Bánh không phơi nắng, không sấy qua lửa nhưng để được rất lâu nếu
làm đúng kỹ thuật. Tất cả các công đoạn là như thế nhưng khâu quyết
định làm nên miếng bánh ngon chính là cách chế biến con. Con là bột nếp
trộn dầu gấc, nước gừng, hương liệu nén chặt, thái nhỏ con toán giống
như các bà nội trợ cầu kỳ hay thái su hào, rồi đem rán phồng.
Nghe
tên bánh cáy nhiều người ngỡ đây là loại bánh làm từ con cáy biển,
nhưng không phải. Bánh cáy được làm hoàn toàn bằng gạo nếp, lạc, vừng
và các gia vị cũng như các loại hoa lá để tạo mầu cho bánh. Dân gian có
truyền thuyết rằng loại bánh này là do thần cáy biển ban cho. Thuở ấy,
cả một vùng phía tây tỉnh Thái Bình vẫn còn là những bãi lầy ven biển.
cửa biển Đan Nhai cách không xa làng Nguyễn là mấy Không biết truyền
thuyết kia đúng được bao nhiêu phần nhưng nếu nhìn kỹ lát bánh cáy,
những màu vàng trắng xen lẫn hồng cam cho ta cảm giác nó giống như
trứng cáy. Cũng có thể đây là lý do mà loại bánh cổ truyền này có tên
là bánh cáy. Nhưng có lẽ do loại bánh cổ truyền này có vị hơi cay khi
ăn nên gọi là bánh cay, rồi dần dần gọi lệch sang thành bánh cáy.
_______________________________________________
ỔI BO THÁI BÌNH
Ổi
Bo Thái Bình: Đã từ lâu, ổi Bo Thái Bình đã trở nên quen thuộc với mọi
người không chỉ đối với những người con sinh ra ở đất Thái Bình mà còn
được biết đến ở nhiều tỉnh thành khác. Ổi Bo đã trở thành "đặc sản”
được nhắc đến trong văn hoá ẩm thực của người Thái Bình. Ổi thì
dường như ở miền quê nào cũng có, nhưng ổi Bo Thái Bình không bị hoà
trộn với bất cứ loại ổi nào, bởi dường như nó đã hội tụ những gì tinh
tuý nhất của đồng đất và con người quê hương Thái Bình. Những ai đã từng
một lần thưởng thức ổi Bo hẳn sẽ rất ấn tượng với vị thơm ngọt man
mát, cùi dầy, ít hạt, thơm dòn. Theo các bô lão thì từ khi còn rất
nhỏ, các cụ đã được nghe thế hệ cha ông đi trước kể chuyện về xuất xứ
cây ổi Bo rằng: Ngày xưa, có một ông nhà ở cạnh sông Trà Lý, trong một
lần đi dạo cạnh bờ sông thấy có một quả lạ nổi trên dòng nước liền vớt
về ném ở sau vườn, sau thấy cây lên quả ăn rất ngon mới đem nhân rộng
ra để trồng. Mặc dù xuất xứ của cây ổi Bo (làng Bo, xã Hoàng Diệu, Thái
Bình), còn mang nhiều "bí tích” nhưng để có được quả ổi thơm ngọt là
cả một quá trình gồm nhiều công đoạn chăm sóc vun trồng cầu kỳ của bàn
tay con người: từ gieo giống, chăm sóc tới khi thu hoạch. Từ khâu
gieo giống cũng đòi hỏi sự tỷ mỉ và hiểu biết nhất định, muốn lấy được
giống tốt phải gieo hạt vào tháng 8 - là lúc thời tiết có mưa nhiều.
Cây được chọn để lấy giống phải là cây mới bói, quả ở cành ngồng để cho
thật chín, ruột ổi (chứa hạt) để trong khoảng một tuần cho nhũn ra
thành nước, sau đó cho vào rá đãi lấy hột. Sau khâu chọn giống là khâu
làm luống. Luống đất để gieo cây phải để thật khô đất phải đập thật mịn
và nhỏ, kéo luống cao 20 phân so với mặt vườn, rộng 1m. Sau đó mới cho
hạt giống đã chuẩn bị sẵn vào gieo, phủ lên trên bề mặt luống một lớp
rạ mỏng, giữ độ ẩm liên tục trong mươi ngày. Sau khoảng 1 tháng cây mọc
lên hẳn mặt đất mới rỡ rạ ra. Để như vậy trong vòng 5 tháng sau mới
đánh thưa ra để trồng. Khi cây có quả (quả to) phải bón phân kali trước
khi thu hoạch một tháng cho quả rắn lại. Từ công đoạn gieo hạt đến khi
được thu hoạch trái ổi đầu mùa phải mất tới ba năm.
Quả ổi Bo
cũng có nhiều loại: có loại quả nhìn giống như quả cam dẹt, có loại quả
lại như quả lê (hay quả đu đủ nhỏ), lại có quả giống như quả găng có
năm múi và năm khe. Nhưng chất lượng và vị ngon của giống ổi Bo chính
hiệu - tức là loại quả được trồng trên đất nguyên thổ của làng Bo, với
chất đất phù sa nhẹ tốt, mỗi năm chỉ cho thu hoạch một vụ vào tháng 7
hằng năm thì không giống ổi ở đâu sánh bằng. Bởi cũng là giống ổi Bo
được ươm trồng ở đất Thái Bình, nhưng khi mang đi trồng ở tỉnh khác thì
hương vị và chất lượng lại thay đổi hoàn toàn. Cây ổi Bo cũng thể
hiện nét riêng đặc biệt của mình đối với người trồng và thưởng thức nó:
khi hái ổi phải hái bằng nèo không được trèo lên cây, và cành ổi cũng
không được rũ xuống gần đất có như vậy ổi mới không bị chua. Khi ăn ổi
Bo không nên dùng dao để cắt như vậy ăn miếng ổi sẽ thấy chua, phải ăn
một cách bình dị dân dã mới ngon, cứ dùng răng cắn vào thịt quả ổi để
cảm nhận hương vị đặc trưng của nó. Đầu tiên là thấy vị chát, sau là
chua dịu, rồi vị ngọt thấm dần vào đầu lưỡi, vào khoang miệng và lưu
lại trong cổ họng.
Chính
những hương vị đặc trưng đó, mà ổi Bo đã trở thành một thứ đặc sản
mang đậm hồn quê, như nhắc nhở những người xa luôn nhớ về quê lúa Thái
Bình.(theo báo Thái Bình)
Nguồn: Saigontoserco
|