Món Ăn Đặc Thù Miền Trung: Nghệ An
CHÁO LƯƠN - NGHỆ AN
Nghệ
An có nhiều món ăn ngon, nhưng với dân sành ẩm thực, cháo lươn xứ Nghệ
mới thật sự là món ăn để lại những ấn tượng đặc biệt nhất trong lòng
thực khách ngay lần đầu thưởng thức.
Bí quyết để làm những tô cháo ngon khá vất vả: Những
con lươn dùng để nấu cháo phải là lươn đồng, bắt bằng trúm (một dụng cụ
bằng tre để lừa lươn chui vào) để tránh cho lươn khỏi bị xây xát, đảm
bảo tươi sống, thịt lươn thành phẩm vừa dai vừa ngọt, chứ không bở rệu
như nấu cháo bằng lươn nuôi.
Lươn mua rồi không làm thịt ngay mà phải đem nuôi lại
7 ngày trong những cái vại, cái chum bằng nước trong cho sạch thức ăn
trong bụng lươn. Trong 7 ngày thay nước liên tục. Ngày làm thịt, lươn
được vớt ra bỏ vào một cái thùng, cứ 5 kg lươn đổ 0,5kg muối, rồi đậy
nắp lại, lắc đều khoảng 15 phút thì đổ vào rổ rửa sạch dưới vòi nước
chảy. Khi làm thịt, đầu lươn được ngoắc vào một cái đinh đóng trên mảnh
ván, đặt ngửa bụng lươn ra rồi dùng dao nhỏ rạch bụng lấy ruột đi, nếu
là lươn to, lươn nhỏ thì phải tước. Thịt lươn luộc lấy nước, sau đó
ướp, xào với các gia vị gồm: hạt tiêu, hành khô thái nhỏ, ớt bột, bột
canh, bột điều cho nổi màu. Sau đó phi hành với dầu trong một cái chảo
rồi đổ thịt lươn đã ướp kỹ vào đảo đều cho tới chín. Nước cháo được hầm
với xương lợn, xương bò sau đó bỏ vào ít gạo quê có pha thêm gạo tám
xoan vo sạch. Khi cháo nhừ, để nồi cháo trên một lò than, lửa nhỏ, nồi
cháo phải luôn luôn sôi lăn tăn. Múc cháo ra bát rồi múc lươn bỏ vào
với khối lượng tương ứng rồi cho gia vị là mùi tàu, hành hoa, rau răm
thái nhỏ, ớt thái lát. Khi ăn nặn một chút chanh là có một bát cháo
ngon đầy hương vị.
Cháo lươn xứ Nghệ "bắt" mắt thực khách trước tiên là
màu vàng tươi của nghệ, màu vàng óng của thịt lươn. Điều đặc biệt làm
nên sức hút của món cháo lươn này là thịt lươn sau khi luộc qua, róc
xương, được tao (xào) lên với hành tăm (loại hành nhỏ) nhưng khi cho
vào tô cháo vẫn nguyên vẹn từng miếng lươn bằng ngón tay út. Cháo được
nấu kỹ bằng gạo ngon, không loãng quá cũng không đặc quá, lại được nêm
nếm vừa ăn dậy mùi thơm. Khi ăn, lươn trộn cùng cháo, thêm gia vị,
tiêu, ớt... tùy sở thích, ăn kèm vài ngọn rau ngổ càng thêm hấp dẫn. Ăn
bát cháo nóng, mồ hôi lấm tấm trên trán, dù giữa mùa hè cũng nên dùng
một bát nước chè xanh nóng để tráng miệng mới cảm nhận được cái thú vị,
cái đặc sắc của món cháo lươn xứ Nghệ.
Ở
Nghệ An, lươn có nhiều, với giá khoảng 50 -60 ngàn đồng/kg, quanh năm
cung cấp đủ lươn cho các quán cháo. Thưởng thức cháo lươn ngon nhất là
vào tiết trời se se lạnh. Nhiều người cho rằng, cháo lươn là một trong
những món ăn truyền thống của dân xứ Nghệ. Đến nay, nhiều người dân
Nghệ An còn giữ tập quán ăn cháo lươn đầu năm mới để cả năm làm ăn trôi
chảy, gặp nhiều may mắn.
_______________________________________________
CHỊN XỒM - NGHỆ AN
Chịn
xồm là món thịt chua của người Thái (Nghệ An). Người Thái (nhóm Tày
Mường, Tày Chiềng ở vùng Mường Khủn Tinh, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An)
thường làm món chịn xồm - món thịt chua ăn rất ngon. Thịt ăn kèm rau gia
vị, chấm nước mắm rất ngon. Để làm món chịn xồm, có thể lấy thịt bò,
thịt trâu, thịt lợn, chọn miếng thịt đặc, không có mỡ, bạc nhạc, rửa
sạch, cắt thành từng miếng bằng bàn tay.
Sau đó đem nhúng qua nước sôi chừng nửa phút cho săn
tái mặt ngoài, rồi vớt ra, để ráo nước, mới thái mỏng; phải thái ngang
thớ thịt, thái miếng to. Cho muối vào đảo đều để ướp; lượng muối vừa ăn
và phải làm muối trắng, mặn quá nhạt quá hoặc muối không thuần khiết
sẽ làm hỏng thịt.
Ướp được chừng một tiếng thì lấy một ít cơm nguội
trộn với thịt, liều lượng cơm so với thịt khoảng một phần ba. Cơm phải
là cơm tẻ và phải để thật nguội. Sau đó cho thịt vào ống nứa tươi mới
tốt, nén thịt xuống vừa phải, không chặt quá, cũng không để thịt rời
rạc quá, thịt sẽ không chua đều; rồi nút ống lại bằng lá chuối, lá
dong, nút làm hai lớp, lớp thứ nhất vo tròn lá, đút sâu vào trong ống,
lớp thứ hai dùng lá trùm miệng ống bên ngoài, lấy lạt buộc chặt. Xong,
đem ống thịt bỏ lên gác bếp để lấy hơi lửa, dựng nghiêng kẻo chảy nước
xuống. Trong môi trường nhiệt độ cao vừa phải, yếm khí, thịt lên men sẽ
"chín" và có vị chua. Ống thịt để trên gác bếp được khoảng ba ngày thì
đem xuống, mở nút đổ thịt ra, đổ thính gạo vào trộn cho thơm, rồi lại
cho thịt vào ống nứa, buộc lại, để lên gác bếp như cũ. Những thao tác
này phải làm nhanh kẻo thịt bị hấp hơi, bị tanh; muốn thế thì phải
chuẩn bị thính từ trước. Ống thịt chua để trên gác bếp khoảng ba ngày
nữa thì dùng được. Trước đây, người Thái còn lấy thịt thú rừng để làm.
Khi
ăn, chỉ cần mở nút, lấy thịt ra đĩa, gắp miếng thịt bỏ vào trong các
loại lá lộc thơm (lá chanh, sung, húng quế...) cuộn lại, đem chấm nước
chấm đã được pha chế cho hợp khẩu vị (nước mắm ngon, tiêu, ớt... nhưng
chớ cho tỏi vào vì thịt chua này kỵ nó). Nhìn miếng thịt vẫn đỏ hồng
nhưng đã chín bởi quá trình lên men, ăn thấy chua, bùi, cay, béo, không
ngậy, tóm lại là ngon rất đặc trưng.
_______________________________________________
BÁNH KHOAI - NGHỆ AN

Ở Hà Tĩnh có nhiều món ăn của xứ Nghệ, cũng thân
thuộc và gắn bó với người Hà Tĩnh như chính sản phẩm của quê hương bản
địa mà khi ở, đến hoặc đi cũng khiến nhiều người nhung nhớ. Một trong
số đó phải kể đến đó là bánh khoai. Bánh khoai chỉ là món ăn chơi của
dân học trò, của nhiều người trẻ tuổi nhưng lại có một sức hấp dẫn đến
kì lạ.
Bánh khoai ở Hà Tĩnh không giống như món bánh khoai
mà nhiều sinh viên Hà Nội, hay ở các nơi khác ăn, nhẫy dầu mỡ. Đó là
thứ bánh giòn tan, và róc mỡ, rất dễ thưởng thức.
Bánh
nhỏ như miệng bát, được chế biến với thành phần chủ yếu là khoai ngon,
chắc, nhiều bột, khi cắt lát có thể thấy độ giòn của khoai mới đạt
tiêu chuẩn. Khoai được gọt bỏ vỏ, cắt lát, phơi khô. Có thể cắt dài hoặc
tròn, tùy theo nhu cầu của khách. Khi làm bánh, khoai khô được trộn
với bột đã nêm gia vị, múc thành từng phần một cho vào chảo mỡ sôi đều,
rán vàng. Chính vì khoai lang được phơi khô nên đã tạo ra được sự giòn
tan khác biệt với loại bánh khoai tươi ở nhiều nơi khác. Bánh khoai
châm với tương ớt, mùa nào cũng là món khoái khẩu của nhiều người nhưng
ngon nhất và thích hợp nhất vẫn là ăn khi trời lạnh lạnh, vừa ăn vừa
suýt xoa mới thích thú, nhất là giới học trò Hà Tĩnh
_______________________________________________
CHÈ DUNG XỨ QUỲNH NGHỆ AN
Chè
Dung – đặc sản xứ Quỳnh: Nhớ đến Xứ Nghệ lâu nay người ta vẫn nghĩ về
bát nước chè xanh - một thứ nước uống dân dã, bình dị nhưng hết sức
quen thuộc. Giờ đây ở Nghệ An lại có một thứ nước uống bình dân khác,
đó là Chè Dung - một đặc sản của vùng đất huyện Quỳnh Lưu. Nếu chỉ
nhìn mà không uống, người không biết khó mà phân biệt được đâu là nước
chè xanh, đâu là nước chè Dung, bởi cả hai cùng có chung một màu óng
vàng. Vậy nhưng khác với vị chát, vị đặm của chè xanh, chè dung chỉ mới
uống vào một ngụm nhỏ đã thấy ngọt và mát nơi đầu lưỡi. Thứ nước này
cũng không quá ngọt như nước nhân trần của phía Bắc hay nhân nhẩn đắng
như chè vằng, chè vối. Chè Dung còn là một phương thuốc chữa bệnh, đặc
biệt là bệnh dạ dày, bệnh tá tràng. Chè Dung còn là liều thức ăn vì nó
có thể làm dịu đi những cơn đói bụng.
Gọi chè Dung là đặc sản
của đất Quỳnh, nhưng trên thực tế chè Dung chỉ có ở một số xã miền núi
của huyện Quỳnh Lưu. Chè Dung không ai trồng, nó mọc tự nhiên trên rừng
và phải đi vào khá sâu mới hái được. Chè Dung có thể uống khi đang còn
tươi hoặc khi phơi khô, vì thế nhiều người ở xa ngang qua Quỳnh Lưu vẫn
hay mua để làm nước uống dần. Cái hay của chè Dung là có thể làm nước
uống chung cho cả nhà vì vị của nó mát, ngọt và rất dễ uống, lúc đói có
thể uống một lúc hai ba cốc vẫn bình thường. Chủ nhà hàng Hoàng
Nhân (nằm trên quốc lộ 1A) có cách "quảng cáo” rất sáng tạo, đấy là
khách sau khi ăn cơm xong sẽ được mời một cốc chè Dung. Nếu khách thích
thì nhà hàng sẽ giới thiệu và mời mua. Chè Dung được đóng gói với lời
giời thiệu khá hấp dẫn: Chè Dung ngon ngọt và thơm tới giọt cuối cùng”.
Chị Nhân (chủ nhà hàng Hoàng Nhân) nói với chúng tôi rằng: "Từ ngày
đem sản phẩm này bán, khách thập phương hỏi mua khá nhiều, tôi phải đặt
hàng liên tục ở người dân gốc đó mới có kịp hàng”.
_______________________________________________
TƯƠNG NAM ĐÀM NGHỆ AN
Tương
Nam Đàn: Cũng như nhút Thanh chương, tương Nam Đàn nổi tiếng không chỉ
ở Nghệ An mà khắp cả nước. Là thực phẩm được dùng làm nước chấm, nước
chan với cơm, rất phổ biến ở trong bữa ăn của các gia đình ở huyện Nam
Đàn, được chế biến từ những hạt đậu tương và những hạt nếp, hạt ngô do
người nông dân làm ra Khác với tương Bần ở ngoài Bắc, tương Nam Đàn
có màu vàng nâu. Mùi tương có vị thơm của đậu tương rang quyện với mùi
mốc nếp, mốc ngô. Làm tương không những đòi hỏi kỹ thuật mà còn
phải có sự kiên trì. Ngay từ tháng Năm âm lịch, người ta đã bắt đầu
chuẩn bị cho công việc làm tương. Muốn tương thơm ngon, trước tiên phải
phơi mốc được nắng. Mốc tương được làm bằng nếp hay ngô. Nếu làm mốc
bằng gạo nếp thì phải hong chín, rải ra nong, lấy lá nhãn đắp ủ cho đến
khi lên mốc mới đưa ra phơi nắng. Còn ngô nếp thì phải ủ cho ngô nứt
mầm, lúc đó bột chuyển hoá thành đường sẽ ngọt. Đem ngô giã nhỏ, hong
lên rồi ủ với lá nhãn, đến khi lên mốc đem ra phơi nắng. Đậu tương đem
rang, để nguội và đem xay cho vỡ đôi, vỡ ba, sau đó cho vào nồi nấu
chín rồi đổ vào chum hoặc ché và đem phơi nắng. Nước làm tương cũng
được chọn lọc rất cầu kỳ. Nước mưa là được nhiều người ưa dùng nhất.
Nếu không có nước mưa thì người ta lấy nước từ sông Lam vào lúc đêm
thanh vắng, để ít ngày cho lắng cặn, sau đó gạn lọc kỹ càng. Tiếp
theo là đem trộn mốc tương vào tương và bỏ muối theo một công thức nhất
định. Nếu bỏ nhiều muối thì tương mặn mất ngọt, mất vị ngon. Nhưng nếu
bỏ ít muối thì tương sẽ bị nhạt và hỏng. Sinh thời, Bác Hồ cũng rất thích ăn tương. Mỗi lần ra thăm Bác, đoàn đại biểu Nghệ An không quên biếu Bác chai tương quê nhà.
_______________________________________________
NHÚT THANH CHƯƠNG NGHỆ AN
Nhút Thanh Chương: Ở xứ Nghệ có nhiều nơi làm nhút, nhưng nơi làm nhút phổ biến và ngon hơn cả là ở huyện Thanh Chương. Nghề
làm nhút ở Thanh Chương có từ lâu đời, là thức ăn dân dã và phổ biến
của mọi gia đình. Vật liệu để làm nhút gồm có mít xanh và muối trắng.
Mít xanh, loại ương ương càng ngon. Mít đang ở trên cây, người ta hái
xuống, gọt sạch vỏ ngoài, rửa cho hết nhựa rồi bỏ vào nong hoặc nia,
dùng dao băm hoặc thái thành từng sợi. Sau đó cho muối trộn đều rồi bỏ
vào cối giã sơ qua, dùng tay vò cho mềm ra. Cuối cùng bỏ vào vại sành
khoả đều trên bề mặt, bỏ vỉ vào dằn đá cho nén xuống, đổ nước muối
loãng vào cho ngập vỉ, đậy nắp che bụi, ủ khoảng 5-6 ngày là dùng được.
Hàng ngày trong bữa cơm, nhút có thể được dùng ăn với cơm. Chỉ cần
tý nước mắm làm nước chấm là đủ. Ngoài ra nhút còn được chế biến thành
món canh hoặc xào-
_______________________________________________
BÁNH ĐÚC HẾN NAM ĐÀN NGHỆ AN
Bánh
đúc hến Nam Đàn: Khác với nhiều nơi khác trong cả nước, Nam Đàn (Nghệ
An) nấu bánh đúc bằng gạo nguyên cả hạt được vo đãi kỹ, chứ không phải
nấu bằng bột gạo xay giã sẵn. Còn hến ăn kèm phải là loại sống ở sông
Lam mới ngon. Hồi xưa, phần lớn người ta nấu bằng gạo gié đỏ, một
loại gạo rất ngon; cho dù có giã đến mòn cả cối đá đi chăng nữa thì
những hạt gạo gié đỏ vẫn mang mầu hồng hồng, rất mặn mà và đằm thắm,
chứ không trắng bông như các loại gạo khác được. Muốn nấu được nồi bánh
đúc cho thật ngon bằng gạo gié đỏ, phải có một đôi đũa cả bằng tre đực
thật chắc, để quấy được thật mạnh, thật lâu - cho kỳ tới lúc các hạt
gạo nguyên kia phải tan nhuyễn thành một thứ bột đặc quánh trong nồi. Quấy
được nồi bột ưng ý rồi, mới đổ ra một cái rổ tre có lót lá chuối sứ
tươi. Chờ cho rổ bánh đúc nguội hoàn toàn, mới dùng dao cắt thái khối
bánh ra những kích thước tùy ý. Nếu là ăn bánh đúc theo thể thức ăn
"bánh đúc hến", thì bánh được thái đều thành từng khối chữ nhật, to
tương đương hai đốt ngón tay. Còn hến là sản vật được trời đất ưu
đãi, bốn mùa có sẵn trong lòng sông Lam; nhưng hến đặc biệt béo, nhiều
và thơm ngon kỳ lạ là vào mùa hè hằng năm. Con hến nhỏ, nhưng ruột lại
rất đặc và trắng xanh; luộc lên, tỏa ra một mùi thơm mát, quyến rũ. Nước
luộc của hến sông Lam trắng và đặc sánh như sữa, nếu để sánh ra tay sẽ
cảm thấy dinh dính. Luộc xong hến, lấy nước để riêng, dùng làm
nước chan với bánh đúc sau này. Còn ruột hến thì một nửa để lại trong
nước luộc, nửa còn lại đem xào với mỡ phi hành. Chỉ xào vừa săn, không
xào quá lửa. Ăn đến đâu thì múc đến đấy; nhưng bánh đúc hến phải ăn
nguội mới cảm nhận hết được hương vị đặc trưng của món ăn bánh đúc hến
Nam Đàn. Gia vị là mùi tàu thái nhỏ, ớt tươi thật cay và thơm; nhưng
tất cả đều để riêng, ai thích nồng độ bao nhiêu thì tùy thích cho vào.
_______________________________________________
BÁNH ĐA NGHỆ AN
Bánh đa: Người Đô Lương, Nghệ An mỗi khi đi xa thường mang theo đặc
sản quê hương mình là bánh đa (bánh khô) để làm quà. Bánh đa đơn sơ,
mộc mạc nhưng mang vị ngon của quê hương qua bàn tay chế biến tài hoa
của những người thợ làm một món quà nhỏ đầy ý nghĩa. Người Đô Lương,
Nghệ An mỗi khi đi xa thường mang theo đặc sản quê hương mình là bánh
đa (bánh khô) để làm quà. Bánh đa đơn sơ, mộc mạc nhưng mang vị ngon
của quê hương qua bàn tay chế biến tài hoa của những người thợ làm một
món quà nhỏ đầy ý nghĩa. Bánh đa được làm từ bột gạo, tiêu, tỏi và
các gia vị khác. Những nguyên liệu này tuy dễ kiếm nhưng phải đảm bảo
nhiều yêu cầu khắt khe để có được chiếc bánh ngon. Gạo phải là thứ gạo
trắng, tuyệt đối không lẫn trấu hay cám lọt vào, nếu không sẽ làm cho
bánh bị cợn, vẩn đục gây mất ngon. Gạo được xay nhuyễn với nước rồi
trộn với thứ vừng (mè) đen hảo hạng, không có hạt vỡ cùng với tỏi giã
nhỏ, tiêu đâm mịn và những gia vị vừa đủ rồi tráng bằng nồi hấp. Khi
bánh chín thì vớt ra, cho lên các giá để phơi cho đến khi bánh khô
giòn. Công đoạn tráng bánh khá công phu, đòi hỏi sự khéo léo của người
thợ. Nếu người thợ tráng hơi non tay thì bánh không có được độ đều và
dày cần thiết để khi bánh đã khô có thể nướng hoặc chiên sẽ phồng đều
mà không bị vẹo bánh. Ở Đô Lương có nhiều làng làm bánh, nhưng nổi
tiếng nhất và ngon nhất là bánh của làng Vĩnh Đức ở thị trấn. Các cụ
cho biết, sở dĩ bánh làng Vĩnh Đức ngon nhất do mạch nước ở đây làm cho
cây lúa làng có hương vị đặc trưng riêng. Do đó, khi lấy nguyên liệu ở
nơi khác về làm bánh thì cũng không ngon như bánh làm bằng nguyên liệu
tại chỗ. Còn các nguyên liệu phụ, vừng làm cho cái bánh thêm vị bùi bên
cạnh độ ngọt của bột gạo, tiêu và tỏi làm cho bánh thơm, khi ăn có vị
cay nồng dễ chịu. Muốn ăn bánh thì người ta nướng lên bằng than củi. Bánh
đa là thứ bánh dân dã, dễ ăn kèm với các món khác hoặc ăn riêng cũng
được. Thông thường, bánh được ăn kèm với bánh mướt (một thứ bánh cũng
tráng bằng bột gạo nhưng ăn ngay khi còn nóng). Cái dẻo của bánh mướt
quấn vào một miếng bánh đa, chấm vào bát nước mắm cay khi cắn lên nghe
tiếng "rốp" thật đã biết bao! Bây giờ đời sống cao, người ta thường ăn
bánh mướt kèm với giò, chả nhưng nhiều người vẫn nhớ và thích ăn cái
kiểu "nửa khô nửa ướt" ấy. Ngoài ra, món "bún giá cá ruốc" sẽ ngon nhờ
một miếng bánh đa, bỏ lên ít bún, thêm ít giá sống và một mẩu nhỏ cá
hấp, rồi chấm vào bát ruốc đã đâm ớt vắt chanh. Vị cay nồng hòa cùng vị
ngọt bùi thêm tí chua khiến khi ăn mồ hôi túa ra thật sảng khoái. Bao
nhiêu người xa quê cứ nhớ cái món ăn thuở nhỏ trong một phiên chợ sáng
đó để rồi day dứt, mong ngóng ngày về...
Nguồn: Saigontoserco
|