Món Ăn Đặc Thù Miền Trung: Thanh Hóa
CANH NGAO - THANH HOÁ
Về
miền biển Hậu Lộc - Thanh Hóa lần nào tôi cũng được thưởng thức những
món ăn phong phú từ biển, nhưng có lẽ món ăn để lại nhiều dư vị nhất vẫn
là canh ngao với nhiều cách biến tấu khác nhau.
Biển Hậu Lộc rộng lớn, là nơi cho nhiều hải sản nhất
vùng đất Thanh. Ở đây có làng Ngư Lộc là làng nổi tiếng với nghề đánh
bắt ngoài biển khơi. Về đây, bạn sẽ được tận mắt thấy cảnh người dân
sáng sớm đã ùa ra bãi thuyền để thu nhận kết quả sau một ngày lênh đênh
biển cả. Những món hàng đầy ăm ắp và tươi ngon, đặc biệt là giá rất dễ
chịu.
Món ăn ở biển Hậu Lộc phong phú, trong đó không thể
không nhắc đến món canh ngao. Ngao được bắt từ biển khơi. Vào mùa hè,
thường có ngao béo và to. Con ngao trông giống con hến nhưng có vỏ dày
và to hơn, màu trắng sáng hơn. Ngao có thể xào, hoặc cũng có thể nấu
canh, thậm chí có người luộc ngao lên, chan nước và lấy thịt chấm muối
chanh ớt. Tôi hứng thú với món canh ngao hơn cả. Người dân nấu ngao với
rau mùng tơi. Cách nấu đơn giản nhất là đem ngao đã ngâm, rửa thật
sạch vào nồi, đổ nước vừa ăn và đun sôi. Khi những con ngao đã mở miệng
thì cho gia vị và rau vào nấu chín lên, bắc ra ăn nóng, chan với cơm,
xì xụp một loáng là xong bữa. Thú vị nhất là việc ngồi nhặt những con
ngao còn nguyên vỏ trong nồi ra, rồi vớt phần thịt ngao lên ăn. Những
con ngao tươi, ngọt và mềm mềm, dai dai. Tôi thích món ăn này vì nó đơn
giản nhưng lại dễ ăn và cũng rất ngon, rất lạ miệng.
Thường thì mọi người hay biết đến món ngao nấu chua
với mùng, cà chua, thì là, nhưng người Hậu Lộc lại nấu với rau mùng
tơi, ăn mùa hè vừa mát lại vừa lâu chán.
_______________________________________________
NEM CHUA - THANH HOÁ
Trên mỗi chuyến xe Bắc - Nam, khi đi qua Thanh Hóa,
các hành khách sẽ thấy một loại quả treo lủng liểng trước mỗi gian hàng
bên đường 1A, màu xanh hấp dẫn, đó chính là nem chua đặc sản xứ Thanh.

Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất
dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một
thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền
kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay. Chính vì vậy,
nem Thanh Hóa vẫn chưa bị mất đi hương vị vốn có từ xưa.
Những quả nem hay cây nem được làm từ thịt nạc lợn,
trộn với một tỉ lệ bì vừa phải, bằng cách tẩm ướp và nhào nặn bí
truyền, cuối cùng cho ra thành từng viên một, nhỏ vừa miệng, quấn kèm
với lá đinh lăng, tiêu tẩm vừa đủ và gói vào nhiều lớp lá chuối xanh,
trong vòng 4 - 5 ngày, khi thịt đã chín là ăn được. Nem chua quả tròn
to gần bằng nắm tay, gói rất cẩn thận và xâu vào nhau trông rất thích
mắt. Khi ăn, chấm với tương ớt là hợp lý nhất. Vị thịt của nem chua rất
lạ. Vừa có cái gì đó chua chua của thịt lên men, vừa ngọt ngọt, đậm đà
gia vị, vừa giòn giòn, hương thơm khó quên của thịt trộn tiêu với lá
đinh lăng nữa.
Ngày
nay, sự phát triển của những cách ăn khác nhau cũng đem đến cho người
ta nhiều sự sáng tạo mới. Nem chua hình dài ở Thanh Hóa thường được các
hàng ăn mua về và rán lên bằng nhiều hình thức, là món ăn rất khoái
khẩu của dân ăn nhậu và của các cô cậu học sinh, sinh viên, vừa rẻ lại
vừa dễ ăn. Nhất là ăn nem chua rán hoặc nướng vào mùa đông thì còn gì
bằng! Ở Hà Nội, Ninh Bình, và hầu hết các tỉnh Bắc, Bắc Trung bộ đều
rất ưa chuộng món quà này của quê hương Thanh Hóa. Tuy nhiên, nem chua ở
Thanh Hóa có nhiều chỗ làm, nhiều nơi bán những ngon nhất, uy tín nhất
vẫn là những xưởng nem chua ở cầu Hạc, cầu Sâng và đường Trường Thi
nằm trong thành phố.
_______________________________________________
MẮM TÉP HÀ YÊN THANH HOÁ
Mắm
tép Hà Yên là một đặc sản quý và độc đáo ở vùng chiêm trũng xứ Thanh,
nổi tiếng nhất là hai làng Ðình Trung và Yên Xá thuộc xã Hà Yên, huyện
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Từ xa xưa đã có câu Giò nạc Yên Xá, nước mắm
Ðình Trung. Làng Ðình Trung là một làng Việt cổ, nằm ven sông Hoạt,
chuyên làm nghề mắm tép. Công việc làm mắm tép đòi hỏi phải theo mùa,
khi tép ngon, béo. Hằng năm cứ đến vụ cày bừa đông (tháng 11 và 12 âm
lịch) cả làng ra đồng đánh tép. Dụng cụ đánh bắt tép có nhiều loại,
nhưng phổ biến nhất vẫn là cái riu - một dụng cụ đan bằng tre, nứa hình
con tôm cong ngược, được đẩy trong nước đánh rất tiện. Chỗ nào nhiều
rong rẻ và rong trơn thì mới nhiều tép ngon. Dân làng Ðình Trung
chỉ chọn loại tép riu làm nguyên liệu chế biến nước mắm, còn tép gạo
tuy to và nạc hơn nhưng khi làm mắm không ngon. Tép riu đánh về nhặt
sạch rong rêu và cá tạp, để cho thật ráo nước. Cứ mười bát tép là bốn
bát muối, hai bát gạo rang giã nhỏ (thính) trộn đều, cho vào chum,
chĩnh hoặc vại tùy theo số lượng tép, đổ nước vừa xăm xắp, rồi đậy kín.
Mắm tép để càng lâu càng ngon, nhưng nhanh nhất cũng phải sáu tháng trở
lên. Khi nấu nước mắm, người ta cho mắm tép vào một túi vải, rồi
vắt kiệt lấy nước cốt cho vào nồi nấu lên, khi đun vừa lửa, nếu muốn
mắm đặc thì đun lâu hơn. Nước mắm thơm ngon cũng là một bí quyết, trong
khi nấu những người dân ở đây còn cho đậu xanh rang vàng, giã nhỏ đun
sôi một lúc. Khi nấu giữ độ lửa sao cho khi rót ra, mắm có ánh vàng,
sóng sánh như mật ong.
Trước
đây nước mắm tép Ðình Trung được tiến vua. Xưa kia mỗi lần làm nước
mắm tiến vua thì các chức sắc trong làng phải cử người đến tận khe Gia
Giã, làng Cổ Ðam (vùng Bỉm Sơn bây giờ) để đánh riêng một loại tép quý,
loại tép riu nhỏ, có mầu trong xanh, muối lên mầu đỏ trông thật ngon
mắt. Khi nấu nước mắm cũng phải chọn người nấu giỏi nhất vùng. Ðồ dùng
để muối tép gọi là ton (giỏ) hình tròn to và đều nhau, để vào trong vại
hoặc chum. Miệng của ton vừa bằng ngang miệng vại, chum, rồi mới cho
tép trộn thính, muối được đổ chung quanh ton. Trong thời gian muối, nước
cốt của mắm ngấm sang cái ton, đến khi mắm đủ độ chín thì dùng gáo
bằng nứa, múc nước cốt đã ngấm đó, rồi theo bí quyết riêng nấu nước
mắm.
_______________________________________________
LƯƠN BUNG CỦ CHUỐI THANH HOÁ
Từ
lúc còn nhỏ, hễ gần đến Tết Trung thu tôi đã nghe cả nhà bàn tán món
lươn bung củ chuối. Lươn đánh bẫy ở ao trước nhà, củ chuối đào ngoài
vườn. Những con lươn to bằng ngón chân cái, da vàng ươm, óng mượt, phải
trông quen mới thấy đẹp, hấp dẫn. Ông nội tôi bảo: "Rằm tháng tám, ta
làm món lươn bung với củ chuối". Củ chuối phải là chuối hột mới ngon.
Chọn đào củ chuối hột non, cây cao trên dưới một mét, gốc to phình. Củ
thái nhỏ miếng, ngâm nước lã khoảng một giờ cho ra hết vị chát. Dùng
tro bếp tuốt nhớt trên mình lươn, lấy lá chuối khô tuốt thêm lần nữa
cho thật sạch, mổ bụng, bỏ ruột, vứt đuôi, rồi dần cho mềm, chặt ra từng
khúc ngắn độ đốt ngón tay. Củ chuối ngâm vớt ra bóp mẻ cùng với lươn,
thêm gia vị, vỏ quýt, mắm tôm, hành, ớt, đợi một lúc cho ngấm rồi bắc
lên bếp đun. Nếu thấy ít nước thì khi lươn, chuối sôi, cho thêm một ít
nước sôi. Đun nhỏ lửa vừa đủ nước sôi sình sịch. Không trộn, đảo để
lươn không bị nát. Vì nấu món này cần thời gian lâu để củ chuối và lươn
mềm nhừ nên người Thanh Hóa gọi là "bung", đậy kín vung. Chất tanh béo
của lươn vàng hòa với chất chát hơi hơi của củ chuối hột, cộng thêm
chất chua của mẻ, thơm, cay của vỏ quýt, ớt, chất ngọt của mắm tôm...
tạo thành thứ hương vị đặc biệt bốc lên ngào ngạt. Lúc này mới tra thêm
mắm muối cho vừa miệng và bỏ vào một ít lá lốt thái nhỏ. Quê tôi có
câu:
... Cá rô quyện với nồi rang Còn như củ chuối, lươn vàng quyện nhau...
Chỉ
dịp rằm tháng tám, quê tôi mới nấu món lươn vàng củ chuối hột, trước
hết vì tháng tám mưa nhiều, củ chuối non mềm, ít nhựa, lươn mát nước
kiếm được nhiều mồi nên béo. Củ chuối hột non, đào lên dùng ngay, để lâu
bị khô và tích nhựa. Lươn to vàng mới ngon, lươn đen, nhỏ kém ngon.
Món này không cúng Tết Trung thu, chỉ để ăn. Buổi tối, trải chiếu ngoài
sân, ăn cỗ tết trông trăng rằm. Các cụ thời xưa cẩn thận đánh mâm đồng
sáng quắc như gương để soi mặt trăng, nhìn cho rõ. Bên mâm cỗ, kẻ nhắm
nhót, người đưa cay, đợi trăng lên cao để xem trăng tỏ hay mờ, trăng
tròn hay náu mà tính chuyện làm ăn. Do đó, Tết Trung thu là lễ tết quan
hệ tới mùa màng nhà nông. Cỗ cúng thông thường có thịt, cá, xôi, bánh
trái. Còn món nhắm rượu để ngồi lâu khề khà không gì bằng củ chuối bung
lươn. Còn món lươn, dược học ngày nay đã công nhận nó là một vị
thuốc bổ. Theo kinh nghiệm cổ truyền, lươn có tác dụng bổ âm mạnh. Các
cụ xưa giải thích vì lươn kiếm ăn dưới bùn nước, ở trong hang hốc. Lươn
nấu củ chuối để trung hòa cái âm tính vốn rất mạnh của nó với dương
tính chuối củ thành một món ăn, thích hợp với mọi người. Các cụ còn
nói: lươn thích trăng sáng; những đêm sáng trăng, lươn hay rong chơi
đây đó, nên Tết Trung thu cần lươn giúp cho trăng to, vì "tỏ trăng rằm
thì được lúa chiêm". Ngày nay quê tôi, tuy chưa phổ biến cũng đã du
nhập món "lẩu lươn": lươn, rất nhiều lươn om với chuối xanh bổ dọc
hoặc cà... Nhưng dầu sao, bao người vẫn không hề quên hương vị đặc biệt
của nồi lươn vàng bung củ chuối hột. Mỗi khi đến tiết trung thu, tôi
lại nhắc câu ví hát dân gian thuở xưa của mẹ tôi dạy:
Đương cơn binh địa ba đào Ai đem củ chuối mà ngào với lươn!
_______________________________________________
BÁNH ĐÚC THANH HOÁ
Bánh
đúc là thứ quà dân dã, rất quen thuộc với mọi người từ làng quê đến
thành thị. Nhưng riêng bánh đúc sốt thì chỉ có ở thành phố Thanh Hoá,
đặc sản của làng Bào Giang, làng Cốc thuộc phường Lam Sơn. Gọi là
bánh đúc sốt bởi vì món này phải ăn nóng. Nguyên liệu gồm bột tẻ, nước
vôi trong, rau cải giã tươi, lọc bỏ hết bã, lấy nước, muối. Cả mấy
thành phần trên hoà trộn với nhau. Và một nguyên liệu quan trọng nữa là
đậu xanh nấu chín, đánh cho nát tơi, lúc nào ăn thì mới xúc đậu rải
đều lên bát bánh.
Khi
nấu bánh chỉ đun lửa riu riu, vừa nấu vừa dùng đũa cả cỡ lớn đánh
không ngơi tay. Nồi bánh nhấc xuống được ủ kín giữa ổ rơm hoặc giữa bì
gai, đay quấn chung quanh trong chiếc thúng cái. Có khách ăn, bánh múc
ra khói toả trùm miệng bát, nóng hôi hổi, màu bánh lại xanh như ngọc
thạch do màu nước rau cải tạo nên. Đặc biệt là hương vị bánh đúc sốt
thì vô cùng hấp dẫn. Thoảng nhẹ một mùi thơm ngầy ngậy béo; ấy chính là
sự hoà hợp của mùi bột gạo, vôi và rau cải (cải bẹ). Đã thế lại thêm
hương vị thơm bùi của đậu xanh nữa.
_______________________________________________
CÁ MÈ SÔNG MỰC THANH HOÁ
Xứ Thanh có nhiều đặc sản như nem chua, chả tôm, bánh gai Tứ Trụ, chè
lam Phủ Quảng… Nhưng nếu không kể đến cá mè sông Mực quả là thiếu sót.
Sông Mực nằm trong vùng sông hồ mênh mông thuộc Vườn Quốc gia Bến Én,
huyện Như Thanh, Thanh Hóa. Do đặc thù sinh thái phong phú, nguồn thức
ăn cho cá mè dư dôi nên cá mè béo mẫm, ngầy ngậy, to con, có con nặng
đến vài ba yến.
Các món ăn cá mè được chế biến cũng rất đa dạng như:
nấu lẩu, nấu om, rán… nhưng tuyệt vời nhất lại có chút hoang dã là
thưởng thức cá mè luộc chín kèm theo các gia vị: khế chua, rau thơm, ớt,
chuối xanh, lộc sung, giá sống… Các thứ trên đem cuốn lại bằng
bánh đa nem. Cái béo ngầy ngậy của thịt cá mè luộc hoà hợp với vị chát
của lộc sung, chuối xanh, vị chua của khế, vị ngọt của giá sông, hương
dịu của rau thơm. Cuốn xong, đem chấm với bát nước mắm đặc sản xứ Thanh
có đủ gia vị: tỏi, ớt, chanh, đường thì ngon tuyệt, dậy mùi, ăn một
lại muốn ăn hai. Người ta dùng bánh đa nem cuốn-cá mè với các loại rau
ghém kể trên rồi chấm vào bát nước mắm đặc sản của xứ Thanh có đủ gia
vị ớt, chanh, tỏi, đường.
Nguồn: Saigontoserco
|